|
|
Truyện/Ký |
UYÊN ƯƠNG GẪY CÁNH
|
MIÊN DU - ÐÀ LẠT - đăng lúc 11:57:47 PM, May 21, 2004
Yên đứng trước Giảng Ðường Spell-Man, Viện Ðại Học Ðà Lạt, nhìn xuống thung lũng, những vườn rau đang mờ dần trong sương chiều, hình ảnh này làm Yên nhớ đến lời của một bài hát mà cho đến bây giờ Yên cũng không biết tác giả là ai:
Chiều tàn trên Spell-Man, Giảng-Ðường chiều ơi cô-đơn, Chiều tàn trên Spell-Man, Ta thấy bâng-khuâng rã rời. Kể từ khi xa nhau, Mỗi ngày một thêm đớn đau....
Yên muốn tìm kiếm tác giả bài hát này để hỏi xem cảm nghĩ của anh có đúng như lời nhạc mà anh đã viết ra khi anh đứng ở Giảng-Ðường này không? Tại sao lời bài hát tha thiết và thắm tận vào hồn Yên. Yên tưởng như tác giả đã viết bài hát này để tặng cho Yên. Có thật mỗi một ngày xa nhau đã làm cho ta thêm đớn đau, chứ thời gian không là liều thuốc bổ hảo hạng để giúp cho con người ta quên đi nỗi thương đau thống khổ hay sao?. Ngày mai Yên lên đường, sự ra đi này không hẹn ngày trở lại, có lẽ có hoặc có lẽ không bao giờ trở lại...?. Yên không biết ngày sau sẽ ra sao?... Tối hôm nay Yên sẽ ngủ và nàng có thức dậy vào buổi sáng hôm sau không, có thể có mà cũng có thể không.... Khi mặt trời chiếu những tia nắng mai lấp lánh xuyên qua khung cửa sổ, chim riú rít ngoài sân, tất cả mọi vật điều tỉnh giấc để bắt đầu hoạt động cho một ngày mới, và Yên cũng sẽ giống như mọi vật thức dậy, đánh răng, súc miệng, mặc áo quần, ăn bữa sáng, rồi vội vã xách giỏ ra chợ để mua, để bán, để gian dối, để một ngày vật vã với cuộc sống của thế nhân, hay là Yên sẽ không bao giờ thức dậy,Yên sẽ được nằm im trong chiếc chăn, cho đến khi có người tới mang nàng đi, bỏ nàng vào một cái hòm gỗ và nắp sẽ đóng lại, tất cả chỉ còn là bóng tối.... Yên vĩnh viễn ra đi trong cô đơn, trong sự tiếc thương của bạn bè, của cha mẹ, của anh em, hay chẳng ai thèm thương tiếc một kẻ như Yên, họ cầu cho Yên chết đi cho rảnh. Có hay không, không ai có thể biết sẽ ra sao ngày sau và Yên cũng thế thôi! Nhưng điều mà Yên biết chắc chắn là ngày mai Yên phải ra đi, rời bỏ Ðà-Lạt, nơi Yên đã sống suốt một quãng đời thơ ấu, nơi đã ghi dấu thời niên-thiếu học trò nghịch ngợm, nơi đã cho Yên tình yêu, và cũng là nơi đã cho Yên những thương đau, cay đắng gặm nhấm trái tim nàng... Yên bước xuống hết bậc cấp của Giảng-Ðường, đi qua chiếc cầu xinh xắn bắt qua con suối nhỏ đã cạn nước. Ngày xưa con suối này lúc nào cũng có giòng nước êm đềm chảy từ thác nước nhân tạo phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh, nay thì thác cạn, suối cũng đóng rêu xanh.... Yên đi dọc theo con đường nhỏ trải sỏi dưới hai hàng cây - tên con đường này là gì nhỉ! ... nếu Yên nhớ không lầm là Cư-Dị, nếu có bạn nào còn nhớ tên những con đường của trường Ðại-Học Ðà-Lạt xin hãy nhắc giùm Yên, bởi vì Yên đã đành quên nó rồi.... Trời chiều đã bắt đầu lành lạnh, Ðà-Lạt vào Thu, không, Ðà-Lạt không có bốn mùa mà chỉ có mùa mưa và mùa nắng. Không, Ðà-Lạt có mùa Thu chứ! Yên nhớ có một nhà văn nào đó đã nói - Mùa Thu là mùa của trời gởi tình cho đất.... Mùa Thu ở Ðà-Lạt có mưa Thu lất phất, có lá vàng lác đác rơi gởi tình cho đất, có gió lành lạnh len nhẹ vào hồn. Mùa Thu Ðà-Lạt có khác nào mùa Thu ở Paris đâu các bạn nhỉ! Các bạn Yên thì bảo Yên hay mơ mộng nên lúc nào cũng bảo mùa Thu Ðà-Lạt, chứ Ðà-Lạt làm gì có mùa Thu, chỉ có mùa học trò nghỉ hè thì mưa ơi là mưa, mưa cho tới khi học trò đi học lại vẫn còn mưa. Gió mưa lụt lội suốt cả Hè lẫn Thu, bởi vì Ðà-Lạt nằm ở địa thế cao hơn mặt biển gần 1,500 mét nên tỉnh nào có bão lụt, Ðà-Lạt điều bị ảnh hưởng mưa gào gió thét. Còn về mùa nắng tức mùa khô thì vào tháng Mười hai, tháng Một, tháng Hai và tháng Ba, bầu trời xinh đẹp, có nắng suốt ngày. Mùa này Ðà-Lạt đẹp hơn bao giờ hết, muôn hoa thi nhau đua nở khắp núi đồi. Nào là hoa Glaieul, Rose, Viollet, Pensée, Tulip, forget me not... Yên thích nhất là hoa “Forget me not”, loài hoa dại màu tím này luôn nhắc ta “xin đừng quên tôi nhé!...” (thế mà ... người ta vẫn cứ quên!). Còn nói về các loài hoa Lan, thì ôi thôi không thể nào diễn tả cho hết cái đẹp của loài hoa này, này nhé: Nhất Ðiểm Hồng (bố Yên có một khúc Lan này để trên nóc nhà, Yên gọi là khúc, bởi vì loại Lan này sống bám vào cây mục, Yên không rành về Lan lắm, chỉ thấy bố Yên quấn nó vào thân một khúc cây và cứ thế nó có thể sống dài dài...), Huyết Nhung Lan, Bạch-Hạc, Tím Ðồi Mồi, Hoa Cô Dâu, Bạch Ngọc, Thanh Ngọc, Kim Hài, Hạc Ðính và biết bao nhiêu loài Lan hiếm quí được khám phá từ núi rừng Ðà-Lạt. Vào mùa này, Yên thường khoác áo măng-tô, kéo cổ áo cao, hai tay cho vào túi áo, và cứ thế Yên có thể đi dạo quanh hồ Xuân-Hương, thỉnh thoảng có vài cơn mưa phùn lất phất rơi nhè nhẹ chỉ đủ làm ướt một lớp mỏng của tấm áo khoác, nhưng làm thấm tận vào tâm hồn của những ai là kẻ lữ khách cô đơn. Thế là Yên cứ cho đó là mùa Thu của “Petite Paris”, dân Pháp đã đặt tên cho thành phố của Yên như thế đó, bởi vì khí hậu và khung cảnh có khác nào thành phố hoa lệ Paris đâu, có thể thành phố củaYên còn đẹp hơn thành phố của dân Tây, bởi vì nơi ấy... có người nàng yêu ...!
Yên rời cổng trường Ðại-Học, băng ngang con đường Ðinh Tiên Hoàng, xuống bờ dốc thoai thoải, rồi lại leo tiếp lên đồi. Yên ngồi xuống gốc thông già, đây là đồi Cù, nơi đã in dấu chân của biết bao cặp tình nhân trong đó có tình yêu của nàng ... Yên đứng dậy vòng tay để ôm cội thông già cỗi này, chắc nó già ghê lắm! bởi vì vòng tay của nàng chỉ ôm được phân nửa, không thể nào ôm trọn nó như ôm ấp một tình nhân. Cây thông già vẫn còn đứng vững nơi này để trơ gan cùng tuế nguyệt, còn Yên thì chưa già nhưng tâm hồn đã cỗi. Thời gian có làm cho tóc ta bạc, da ta nhăn, mắt ta mờ, trái tim ta mòn mỏi, nhưng ký ức vẫn tồn tại, nỗi suy tư vẫn làm tim ta thổn thức... Yên nằm dài trên cỏ, úp mặt xuống làn cỏ mịn, ngắt một cọng cỏ tước ra rồi bỏ vào miệng nhai, vị chát rồi nhạt nhẽo làm Yên nhớ đến ngày xưa.... Có nên cho ngày ấy là ngày xưa không nhỉ!. Cái ngày mà anh ra đi... không... phải nói là cái ngày mà anh đã phụ tình nàng ... nàng đã đến nơi này, đã nằm giống như là nàng đang nằm bây giờ... Nước mắt chảy dài trên má, đã bao nhiêu năm trôi qua... mười bảy năm... thế mà nàng cứ ngỡ mới hôm qua... ..... Yên ngồi tựa lưng vào lưng của anh, đầu ngã lên vai anh, Yên cất tiếng ngâm thơ, anh đàn, chiếc đàn ghi-ta cũ kỹ, thế mà anh rất quí nó, thuở ấy nàng thích ngâm thơ hơn là hát, bởi vì Yên hát dở lắm! Yên không thích thơ tình Xuân Diệu, chỉ thích thơ tình tiền chiến của Quang-Dũng, Hoàng-Cầm hay Yên-Thao. Yên thích ý thơ của Quang-Dũng hơn, có lẽ bài thơ “Ðôi mắt người Sơn Tây” và “Ðôi-Bờ” làm Yên mê thơ của ông ấy nhiều hơn, nàng khẽ ngâm:
Bao giờ ta gặp em lần nữa, Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca, Ðã hết sắc màu chinh chiến cũ, Còn có bao giờ em nhớ ta...
Anh quay lại khẽ hỏi Yên: - Cho đến bao giờ em lấy anh?. Yên cười và đưa cả hai bàn tay cùng hai bàn chân lên, Yên nói: - Anh cho em mượn một bàn tay của anh. - Chi vậy! anh hỏi. Yên cười khúc khích: -Ðể cho đủ số hai mươi lăm. Anh để bàn tay của anh áp vào bàn tay Yên rồi hỏi: -Hai mươi lăm để làm gì? Yên nói : -Hai mươi lăm tuổi em mới lấy chồng. -Tại sao vậy? anh hỏi. Yên nằm dài trên cỏ, mắt nhìn vào khoảng không gian rộng bao la nơi ấy có một đàn chim đang tung cánh. Yên ước mình có đôi cánh ấy để được tung bay khắp bốn phương trời. Ở phương trời xa kia chắc phải có nhiều điều lạ lắm! Anh đến nằm cạnh bên Yên, đưa tay gỡ những cọng lá thông khô vướng trên tóc nàng, anh lập lại câu hỏi: -Tại sao đến hai mươi lăm tuổi em mới lấy chồng, em không thể lấy anh sớm hơn hay sao? Bộ ba mẹ không cho hả? -Không, ý em muốn vậy, em muốn vào Ðại-Học, bốn năm sau ra trường, đi làm việc khoảng hai năm, có sự nghiệp đàng hoàng rồi mới lấy chồng. Người ta nói lấy chồng, có con ở tuổi ấy con cái sẽ thông minh hơn. Yên trả lời, anh đưa tay vuốt nhẹ lên má Yên rồi cười khẽ nói: -Sao em lo xa quá vậy, những chuyện ấy để anh lo, đàn ông lo sự nghiệp, đàn bà lo chuyện gia đình, lo cho chồng, cho con là đủ rồi. Thông minh như em có con ở tuổi nào con cũng thông minh giống mẹ. Người ta nói thân xác của cha, nhưng trí tuệ của mẹ. Yên đáp lời anh: -Nhưng em còn ba mẹ, còn các em, chúng nó còn nhỏ lắm, em còn phải lo giúp đỡ gia đình nữa chứ ! Anh im lặng không nói gì nữa, đứng lên kéo Yên ngồi day, cả hai nắm tay nhau chạy xuống đồi. Cứ thế, mỗi buổi chiều, Yên và anh tay trong tay đi dọc theo con đường Nguyễn Thái Học, đi ngang qua vườn hoa Ðàlạt nối tiếp với đường Bà Huyện Thanh Quan, đi qua cái cầu sắt rồi đi ngược con đường hồ Xuân-Hương để trở lại cầu Ông Ðạo. Ðường đi vòng quanh hồ Xuân-Hương dài khoảng sáu cây số, mà sao Yên thấy nó ngắn thế!...
Yên và anh thích lên đồi Cù ngồi nhìn xuống hồ Tẩm-Lệ... người ta gọi tên hồ là Cẩm-Lệ, nhưng Yên cho tên là Tẩm-Lệ mới đúng, bởi vì nó đã ướt đẫm bao nhiêu nước mắt của các cô gái mà trong đó có Yên ... Yên ngã đầu vào vai anh, rồi ngâm cho anh nghe:
Nhà tôi ở cuối chân đồi, Có giàn Thiên-Lý có người tôi thương...
(bài thơ “Nhà Tôi” của Yên-Thao có câu: -Nhà tôi ở cuối “thôn Ðoài”, có giàn Thiên-Lý có người tôi thương”, nhưng Yên đã đổi chữ “thôn Ðoài” thành “chân đồi” để nói lên niềm mơ ước của nàng). Anh cười, lùa tay trong tóc Yên, và đọc thơ cho nàng nghe:
Tóc em dài em cài hoa thiên-Lý, Miệng em cười anh để ý anh thương.. . nói xong anh cúi xuống dí sát cái mũi của anh vào mặt Yên, đôi mắt thật thiết tha. Yên biết anh muốn gì, Yên đưa ngón tay lên miệng ra dấu cấm. Anh không bao giờ dám hôn nàng khi không được nàng cho phép, và... Yên không bao giờ cho phép. Ðã bao lần anh năn nỉ cho anh được hôn nàng, Yên không cho, anh hỏi tại sao? Yên nói: -Mẹ bảo con trai với con gái mà hôn nhau thì sẽ có con, em sợ có con lắm, mẹ sẽ đánh chết!. Anh bật cười ôm lấy Yên, - Sao em thơ ngây quá vậy! nếu có con anh sẽ được cưới em sớm hơn. Yên hét to lên: - Không được! nàng vùng chạy khỏi tay anh. Thế là cả hai đuổi bắt nhau, hò hét vang dậy cả một góc đồi. Anh bắt được Yên, ôm siết nàng trong tay, áp mặt anh lên tóc Yên, và khẽ nói: Anh sẽ cất một cái nhà dưới chân đồi, sẽ trồng giàn hoa Thiên-Lý, sẽ rào quanh nhà bằng hoa Tường-Vi, và... sẽ bắt em về nhốt trong căn nhà ấy. Em sẽ vĩnh viễn là của anh, của suốt cuộc đời anh....
... Của suốt cuộc đời anh... Câu nói ấy vẫn còn vang vọng đâu đây nơi chốn này, nó cuốn theo trong gió, nó lồng lộng trên trời cao, nó theo mây, theo mưa rơi rớt quanh đây thấm vào đất, nó vướng trên cỏ non, nó nhập vô cội thông già, và bây giờ... anh đã mang nó đi đâu??? ...
Ngày biết anh có người con gái khác, Yên đã ra nằm dưới cội thông già này, để mặt cho nước mắt tuôn rơi, tim nhói đau, thân xác rã rời. Chỉ mới có vài tháng trước, anh muốn Yên là của anh suốt cuộc đời này.... Thế mà chỉ vài tháng sau anh đã mang nó đi đâu?... Anh không hề nói gì với Yên. Cả hai đang vui vẻ, hạnh phúc trong yêu thương, tại sao và tại sao? .... Ðau khổ... Yên lang thang khắp các ngọn đồi. Yên nằm lăn ra cỏ, Yên gào thét, nỗi đau thương này có ai thấu tình nàng ... Yên đã nằm như thế không biết đã bao lâu. Sương chiều ướt đẫm tóc nàng, thấm lạnh, Yên choàng dậy, áo quần nàng cũng đẫm ướt sương đêm và lấm lem những hạt cỏ và đất. Yên trở về trong nỗi đau thương chưa lắng đọng... Vào nhà, Yên né tránh tất cả mọi người ... Sáng hôm sau Yên lên cơn sốt, mẹ nàng mời chú Nho, y tá thường săn sóc bệnh cho bố Yên, tới chích thuốc cho nàng. Yên nằm liệt giường không ăn uống gì cả cho tới ngày thứ ba ... Sau khi khám bệnh và chích thuốc cho Yên xong, nàng thấy chú ấy nói khẽ với mẹ, Yên không biết chú ấy đã nói gì với bà. Mẹ Yên quay vào ngồi bên giường và nói với nàng: - Con phải biết là con là con của mẹ, nếu con có mệnh hệ nào thì chỉ có mẹ là người đau khổ, còn người khác, họ không bao giờ thương tiếc con đâu. Con phải biết thương mẹ, thương các em của con, con còn trẻ lắm, con có hiểu không? Rồi mẹ Yên khóc, nàng nắm chặt tay bà nước mắt chảy dài trên má. Phải rồi Yên có chết đi, anh vẫn vui, anh sẽ không buồn vì bên anh đang có người con gái khác. Anh đã quên mất tình yêu của Yên ...
Yên như bừng tỉnh dậy, phải rồi Yên không thể chết, nàng phải cho anh thấy nàng vẫn sống vui khoẻ, nàng phải cười vui lên chứ! cho dù Yên sẽ không có anh trong cuộc đời nàng... Yên tung chăn bước xuống giường nàng đã té ngã vì quá yếu, Yên đã ba ngày không ăn uống. Mẹ Yên đỡ nàng dậy, dìu nàng ra khỏi giường, đặt nàng ngồi xuống ghế, bà để tô cháo trước mặt dỗ dành cho nàng ăn. Yên thấy nàng có lỗi với mẹ, với các em nàng!
Qua hôm sau Yên đã khoẻ lại ngay, nàng ăn liền một tô phở lớn, uống một ly nước nóng cho ấm người. Yên đứng dậy mặc áo đi ra phố, nàng đi băng qua Dốc Nhà Làng đến đường Minh Mạng ghé vào tiệm sách Thiên-Nhiên, qua đường Hàm Nghi tới tiệm sách Khai Trí, Liên Thanh, rồi ghé qua các hiệu sách ở khu Hoà-Bình. Yên đi loanh quanh vào ra các hiệu sách như một kẻ ngớ ngẩn, vẫn không tìm ra quyển sách mà nàng muốn có. Cuối cùng Yên tìm đến Nhà sách Nhân-Văn nằm ở cuối đường Duy-Tân (nhà sách này của thầy Nguyễn Xuân Thiệp và cô Dung, cô ấy là giáo sư Việt Văn dạy Yên năm đệ lục ở trường Bùi Thị Xuân, cô đã tặng nàng tập thơ “Trong vườn tôi Hoa Phù Dung vẫn nở”ờ, tiếc rằngYên đã không mang theo tập thơ ấy khi nàng ra đi). Ở nhà sách này Yên đã tìm thấy quyển sách mà nàng muốn “Uyên Ương Gãy Cánh” của Tagore (Rabindranath, một nhà thơ Ấn Ðộ mà Yên rất quý mến). Bấy giờ là tháng Mười Một, tháng sinh nhật của anh. Yên gói quyển sách cẩn thận với một tờ giấy thật đẹp, nàng trân quý nó như quý mối tình đầu của nàng vừa “gãy cánh”ờ. Yên nhờ Thi (cậu em kết nghĩa của anh) đem tới đúng vào ngày sinh-nhật của anh. Thế là hết “Uyên-Ương Gãy Cánh”. Sau này Yên nghe Thi nói, khi nhận được sách anh có đến tìm nàng nhưng không gặp. Yên không tìm hiểu anh tìm nàng để làm gì, phải rồi để làm gì cơ chứ!.. anh đã phản bội Yên, anh đã có một người con gái khác đi bên cạnh cuộc đời anh rồi. Yên không muốn phá vỡ cái hạnh phúc mới mà anh đang có..., có thật nàng muốn thế không...? Nỗi đau thương vẫn còn gặm nhấm.... Yên vẫn thắc mắc tại sao anh không lời nào cho sự chia tay này... Cho tới ngày Yên đi lấy chồng. Còn ba tháng nữa là tới ngày cưới, nàng cũng vừa tròn hai mươi hai tuổi... Yên đã không lấy chồng ở tuổi hai mươi lăm như nàng muốn, và Yên đã không còn cơ hội để thực hiện ước mơ của nàng....
Yên đã nghĩ đến anh... và viết thiệp mời anh tới dự đám cưới của nàng. Ừ nhỉ! Tại sao không mời anh, nàng phải cho anh biết nàng đi lấy chồng và đã quên anh rồi...! Yên cầm tấm thiệp cưới trong tay, đi bộ xuyên qua con đường tắt nối từ đường Hai Bà Trưng tới đường Phan Ðình Phùng. Con đường này Yên vẫn thường đi, nó ngắn lắm!.. nhưng hôm ấy Yên thấy nó dài vô cùng... Chưa tới nhà anh thì Yên gặp Ngọc, cô em gái rất dễ thương này vẫn thường sinh hoạt với anh trong nhóm văn nghệ của Gia Ðình Phật Tử chùa Linh Sơn. Gặp Yên cô mừng rỡ, ôm lấy nàng, Ngọc nói: - Em mới đọc được thư của chị, chị viết thư hay quá, như là làm thơ vậy, chị dạy cho em viết với. Yên ngạc nhiên, thư gì nhỉ! Ðã lâu lắm rồi nàng có bao giờ viết thư cho ai đâu! Yên hỏi Ngọc: - Em đọc thư gì? Chị không hiểu, em đọc ở đâu? -A, em mới đọc ở nhà anh Bảo hôm qua, thư của chị viết bằng mực tím nè! thư này viết lâu lắm rồi, màu mực đã phai, anh ấy đưa cho em một xấp, đọc cả tiếng đồng hồ mới hết, rồi còn cho em xem hình của chị nữa. Chị bây giờ với hồi đó không khác gì nhau. Ngọc nhanh nhẩu trả lời, Yên lặng người trong một giây.... Anh vẫn còn giữ thư của nàng sao? Ngày xưa, Yên vẫn thường mỗi ngày viết cho anh một lá thư, mặc cho hai đứa có gặp nhau hay không. Yên chỉ dùng mực tím viết trên một tờ thư được gấp lại như một quyển sách nhỏ. Yên có lối gấp thư riêng, nên anh nhìn là biết thư của nàng ngay. Anh thường nói với Yên, “Em cái gì cũng có một sự đặc biệt làm người ta phải nhớ đến em.” Yên hỏi Ngọc, - Tại sao anh ấy lại cho em đọc thư của chị, em thấy anh ấy có còn giữ mấy quyển sách không, tại sao còn giữ thư, giữ hình làm gì cơ chứ!?... Thời gian đã bốn năm qua từ ngày anh xa Yên... anh đã phụ nàng mà còn giữ chi những thứ ấy làm gì nữa chứ!... Yên thấy tim nghẹn thắt, nước mắt chực trào ra, nàng ngạc nhiên, nàng vẫn chưa quên ư?.. Ngọc trả lời Yên: -Em không biết, anh ấy nói thấy em cũng má đỏ hồng, hay cười, nói chuyện giống chị, chợt nhớ đến chị nên đem thư và hình chị ra cho em xem, em thấy anh ấy cất tất cả trong một cái hộp nhỏ, em hỏi anh ấy cất để làm gì, anh đã có người khác rồi giữ làm gì những thứ này, thôi cho em đi, anh đâu có còn thương chị ấy! Nghe em nói vậy, anh ấy giận, cất tất cả vào trong hộp. Yên nghe như nhói cả con tim, nàng ngỡ vết thương ở trái tim từ lâu đã lành hẳn rồi, nhưng nó vẫn còn nhức nhối lắm!... Anh vẫn còn yêu Yên ư!... Yêu nàng?... mà sao anh lại bỏ nàng đi?!!. Yên ngắm nhìn Ngọc, nàng thấy Ngọc có hai má đỏ au giống nàng, gái Ðà Lạt có khác, cũng nụ cười với đôi mắt long lanh và mái tóc thề đen nhánh xõa ngang vai, có một nét gì đó giống nàng thật. Nhớ có lần anh đã hát câu “Em Ðàlạt má đỏ môi hồng, ở đây buổi chiều quanh năm mùa Ðông, nên tóc em ướt và mắt em ướt ...”, câu hát này trong bài “Còn một chút gì để nhớ, để quên..” thành phố “Pleiku” anh đổi lại là “ÐàLạt” để hát ghẹo nàng .... Yên hỏi Ngọc anh ấy có nói tại sao lại xa Yên không, nàng muốn biết điều này, nó đã làm Yên ấm ức suốt bao nhiêu năm qua, không, anh ấy đã không nói gì cả, chỉ ôm đàn và kể chuyện ngày xưa của hai đứa cho Ngọc nghe. Anh bảo Ngọc, anh có lỗi với Yên, rồi anh đọc thơ cho Ngọc nghe:
Ở trời tây ta nhớ trời đông, Nhớ trông sợi khói nhớ phiêu bồng, Có dăm hàng núi ngăn người đến, Có một giòng xa cách mấy sông...
Bốn câu thơ này của Kim-Tuấn, Yên thường ngâm nga cho anh nghe mỗi lần anh lỡ hẹn. Yên nói với anh, núi và sông chỉ do con người tạo ra để vịn vào cớ ấy mà không đến với nhau. Người xưa có nói “thương nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”, trong khi ở đây chỉ có một giòng, mà đã thấy như xa cách mấy con sông. Nghe Yên phân vua như thế, anh đưa tay lùa vào tóc nàng, hôn nhẹ lên trán của nàng và nói: “cái trán lì, em lúc nào cũng có cả bầu thơ trong cái đầu này, có dịp là tuôn ra xối xả, anh xin thua em”... Yên đưa cho Ngọc tấm thiệp cưới rồi nói: - Nói với anh ấy chị đã quên hết rồi!. Mỗi người có một cuộc đời đi khác hướng nhau, hãy đốt bỏ tất cả rồi quên đi.... Chị luôn cầu chúc cho anh ấy được hạnh phúc và mong cô gái ấy là... của suốt cuộc đời anh ấy.... Ngọc vội nói, - Họ bỏ nhau rồi chị ơi!... Nhưng Yên không còn muốn nghe nữa, xót xa, cay đắng vẫn còn hành ha nàng, và bây giờ nàng sắp sửa lấy chồng, Yên đã chọn con đường của nàng. Yên luôn luôn muốn làm một người vợ thủy chung, yêu chồng, thương con. Yên muốn làm tròn tất cả bổn phận của một người vợ, người mẹ, thì nàng phải quên đi... quên đi...
Yên choàng dậy sau giấc mơ dài cho quá khứ, thời gian đã trôi đi mười mấy năm qua.... Sương ướt đẫm trên tóc trên vai áo, lần ra đi này nước mắt Yên tuôn chảy nhẹ nhàng hơn, tâm hồn thấy man mác trong nỗi đau dịu dàng nào đó, bởi vì lần này chính nàng là người bỏ ra đi, Yên không phụ người để ra đi, mà nàng rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để đi đến một đất nước xa xôi cách quê hương nàng nửa vòng trái đất. Những con người nơi ấy không cùng tiếng nói, cách ăn, cách ở... họ là ai, Yên chưa hề quen biết, nàng sẽ phải làm gì ở nơi xứ sở xa lạ ấy... nàng sẽ ra sao?!! NhưngYên phải đi, vì tự do, vì tương lai cho cuộc đời các con của nàng. Yên quỳ xuống hôn lên khoảng đất nàng đã nằm, ôm hôn cội thông gìa đã từng chứng kiến tình yêu của nàng với anh, và nỗi đau đớn não nề khi nàng mất anh.... và rồi... “Như một chút mặt trời trong nước lạnh...” (Francois Sagan)
Yên dấu sâu vào hốc cây một gói giấy nhỏ... nếu ngày nào nàng còn sống trở về, nàng sẽ tìm lại nó... nếu... cội thông già vẫn còn đứng đấy! Và... nếu... anh không bao giờ trở lại nơi này... Ngày ấy... Ðã mười năm, Yên không trở về...
Kể từ khi xa nhau, Mỗi ngày một thêm đớn đau, Chiều chết trên Spell-Man, Ta thấy bâng-khuâng rã rời...
Miên Du - Ðàlạt (California,Một ngày đầu Xuân 2000)
|
|
Created by Hiep Nguyen, Sept. 2003 |