Nov 21, 2024   log in
 
home
thơ
danh sách tác giả
nhạc
truyện ngắn
biên khảo,phê bình
điểm sách
phỏng vấn
quan điểm
sinh hoạt văn học

ban biên tập
tìm kiếm
thư tín
giới thiệu sách báo
 
 
  Truyện/Ký
PHÂN THÂN TRUYỀN KỲ
HẠT CÁT
Sinh tuổi xấp xỉ tứ tuần. Nhờ lão thiên gia ưu đãi, vào năm đó chàng đã là chủ nhân ông của một tài sản kết sù .Ai cũng nghĩ rằng chàng thuộc giới con ông cháu cha nên mới có thể sở hữu số tài sản và điền thổ khổng lồ như vậy, người ta còn đồn đãi là chàng đào trúng một kho vàng, ôi thôi, huyền thoại chung quanh chàng không biết cơ mang nào mà kể, chàng nghe đuợc chỉ cười... tủm tỉm, không ừ mà cũng không chối khiến thiên hạ càng tin chắc như ... bắp.Chàng thiết kế nội thất và văn phòng kinh doanh trong cùng một biệt thự khang trang rộng lớn tại một mẫu đất khoáng đãng thuộc vùng ngoại ô yên tĩnh, cách đô thị nửa giờ xe nên hàng ngày không phải mất nhiều thời giờ di chuyển,chỉ cần đi vài mươi bước thì chàng đã có thể thay đổi vị trí từ văn phòng dưới tầng trệt lên thư phòng ở lầu hai dành riêng cho chàng. Chỉ khi nào cần thăm viếng các phân xưởng sản xuất thì chàng mới phải đi xa,nhưng cũng họa hoằn lắm chàng mới đích thân xuất hành, đa phần chàng giao những việc đó lại cho thuộc cấp lo liệu, chàng chỉ ngồi tại văn phòng mà điều hành qua hệ thống võng lạc. Ban ngày công việc bề bộn nên đêm đêm khi hiền thê và các công tử tiểu thơ của chàng đều đã yên giấc, chàng hay ở lại một mình trong thư phòng để giải quyết thêm văn thư tồn động, để giải trí với câu thơ tiếng nhạc hay võng đàm cùng bằng hữu. Là một người có vị thế không tầm thường trong xã hội, tất nhiên Sinh cũng không thể nào tránh khỏi bị lôi kéo, mời mọc đến những buổi yến tiệc thâu đêm suốt sáng cùng các nhân vật quan hệ đên việc kinh doanh của chàng nhưng chàng khôn khéo từ chối bằng cách viện lý do trường chay và chàng cắt cử người đại diện nên chàng có nhiều thời gian nhàn hạ hơn.Và dù chàng có thừa thải khả năng và phương tiện để tham gia những trò giải trí thời thượng của xã hội giống như lời thiên hạ vẫn đồn đãi, nhưng chàng vốn là một người nhân hậu lại có cơ duyên được gần gũi các bậc cao tăng, chàng thấm nhuần triết lý Phật pháp sâu sắc,chàng hiểu được thế gian này còn lắm cảnh ngộ trái ngang, khổ ải nên chàng không nhẫn tâm, không dám vung vít đồng tiền vào những việc hoang phí .

Một đêm khuya khoắt vắng vẻ nọ,khi đang lay quay với tập hồ sơ của nhân viên phòng tài chánh đưa vào ban chiều mà chàng cần phải duyệt xét cho kịp lệnh ban hành ngày mai, chàng cảm thấy mệt mõi, cơn buồn ngủ ở đâu ập tới, chàng vươn vai, ngáp dài ghé lưng xuống bộ trường kỷ định ngủ một giấc ngắn rồi sẽ tiếp tục công việc. Vừa chợp mắt thiu thiu, bỗng Sinh mơ màng nghe dường như có tiếng người lách cửa lướt nhanh vào thư phòng mang theo môt mùi hương dịu dàng êm ái, chàng định mở mắt ra nhìn xem là ai nhưng đôi mắt của chàng cứ nhíu lại, không tài nào nhướng lên được chứ đừng nói chi là mở.Thần thái chàng dường như nửa tỉnh nửa mê,tuy mở mắt không ra nhưng chàng mường tượng được sự xê dịch của bước chân người, bước chân nhẹ nhàng như khói như mây, mùi hương phảng phất theo xiêm y thướt tha hơi gió khiến chàng cảm thấy sảng khoái. Chàng cảm nhận được bước chân nhẹ nhàng lướt ngang qua chỗ chàng nằm rồi im lặng,mùi hương phả vào mũi chàng ngào ngạt ,một bàn tay dịu dàng mà cũng nhẹ như sương khói dường như đang phớt qua mái tóc rồi lướt nhẹ qua vầng trán của chàng, chàng cảm thấy một nỗi êm đềm ấm áp lâng lâng khó diễn tả dâng lên, dường như là một từ trường chứa chan tình thương bao la rộng lớn đang vây phủ lấy con người chàng, chàng không cảm thấy sợ sệt chút nào, chàng muốn đưa tay lên nắm lấy bàn tay ấy nhưng chàng không thể nào điều khiển được cánh tay ,thôi thì đành nằm yên xem việc gì sẽ xảy ra vậy. Mùi hương vẫn phảng phất chung quanh chàng,dường như cái bóng thướt tha xiêm áo đã di chuyển đến bên cỗ máy điện não của chàng rồi, chàng mơ hồ nghe tiếng lách cách của bàn phím, tiếng nối mạng i ỉ vang lên rồi bỗng dưng chàng chìm sâu vào giấc ngủ, không biết gì nữa cả.

Khi Sinh giựt mình thức dậy,nhìn đồng hồ đã thấy quá canh ba, đèn đóm trong phòng vẫn đang rực sáng, chợt nhớ đến chuyện vừa qua chàng đứng lên đưa mắt nhìn quanh quan sát,mọi vật đều nằm yên ở vị trí,không có gì mất mát thay đổi cả,thư phòng yên lặng như tờ,Sinh bước đến mở toang cánh cửa kính thò đầu nhìn ra ngoài, khung cảnh hoa viên bên dưới hoàn toàn yên lặng ,ngoài tiếng côn trùng rỉ rả và hơi sương quyện lẫn mùi cỏ ướt, dường như chàng còn ngửi được mùi hương lãng đãng đó đây. Nhớ đến cỗ máy điện não, Sinh vội vàng chạy đến ngồi vào ghế hấp tấp bật lên xem có vấn đề gì không.Vừa bật máy lên chàng vô cùng kinh ngạc, một bài thơ cổ ngữ ngũ ngôn xa lạ hiển thị trên màn hình tự bao giờ.Bài thơ này quả là lạ lùng đối với chàng .Sinh vốn là người có nhã thú thưởng ngoạn nét đẹp của trời đất,của lòng người qua thi, nhạc, họa và tuy rằng lâu nay chàng cũng hay sưu tầm những áng văn chương, thi ca đẹp đẽ, ý nghĩa để thưởng thức nhưng chàng chưa từng thấy bài thơ này bao giờ ,sao nó lại nằm khơi khơi trên máy của chàng như là một bức tranh minh họa mặt kính màn hình như thế này. Sinh ngạc nhiên quá đỗi . Chuyện gì đã xảy ra với chàng đây, có phải chàng vẫn đang tỉnh táo không, hay là truớc đấy chàng đã cài nó vào rồi chàng lại quên lững,cỗ máy này thiết kế dành riêng cho chàng ở thư phòng nên không có một cộng sự viên nào của chàng động cập tới,kể cả các công tử,tiểu thơ của chàng,chàng vẫn ít khi dùng tới vì đã có một cỗ ở văn phòng được chàng thường xuyên xử dụng trong việc điều hành nghiệp vụ hằng ngày rồi .Thế này là thế nào? Ôi !Thế nào thì thế,chàng hãy ngồi xuống cho ngay ngắn đoạn chậm rãi đọc bài thơ xem nó có ý nghĩa gì cái đã.

Vấn thùy

Mang mang vũ trụ gian,
Thùy dữ ngã tương quan.
Tùng kỷ na tiền kiếp,
Hà vị khởi ngôn hoàn?

(Hỏi ai

Giữa vũ trụ mênh mông
Ai cùng ta tương thông
Từ bao đời kiếp trước
Sao chưa chuyện vãn cùng?


Ðọc xong bài thơ, tâm hồn chàng xáo động mãnh liệt. Chàng không tin vào mắt mình. Rõ ràng chàng chưa bao giờ hạ tải bài thơ này. Sao tự dưng nó nằm ở dây,nó có liên quan gì đến nhân ảnh mờ mờ sương khói lúc nãy không,có phải chàng vừa nằm mộng không, chàng vùa trải qua một cảnh giới nào đây,vật chứng rành rành là bài thơ này và mùi hương nọ, vậy thì ai đã vào đây lúc canh khuya đêm vắng ,và vào bằng cách nào, rồi họ đi đâu mà gia đinh, nô bộc trong nhà không ai hay biết khi mà môn hộ ba bên bốn bề đều khóa cài chặt chẽ, cả hệ thống báo động tinh nhạy cũng không phát giác ra được gì.Sinh ngồi thừ xuống ghế nghĩ ngợi đến điên cả đầu cũng không làm sao có lời giải thích thỏa đáng.Chàng hồi tưởng đến cảm giác của chàng ban nãy,rõ ràng là chàng vẫn nghe được nỗi êm đềm lâng lâng trong một tình thương bao la giống như mọi khi chàng sinh hoạt gần gũi bên cạnh các thiện tri thức của chàng.Cái bóng dáng mờ mờ nhân ảnh đó chắc chắn là nữ giới nhưng nhất định không phải là hiền thê chàng,hiền thê chàng không dùng loại xạ hương này, vậy thì là ai? Chàng thường hay nhớ đến mẫu thân,hay nhắc nhở giáo ngôn của mẫu thân, nhưng đó cũng nhất định không phải là bà, mẫu thân chàng quá vãng đã lâu,và nếu như là bà thì bà sẽ để cho chàng nhìn thấy mà gọi một tiếng mẹ ơi .Chàng cứ suy nghĩ mãi vẫn không hiểu được. Là ai, là ai, là ai ? Dấu hỏi to tướng ấy đeo đuổi trong đầu chàng mấy canh giờ liền.



Tiếng gà eo óc gáy vang đâu đó khiến chàng giật mình nhìn lại đồng hồ .Ðêm đã quá canh năm,thấy trong người khỏe khoắn,Sinh quyết định tiếp tục công việc.Chàng vẫn có thói quen ngủ rất ít, khi quá mệt mõi chàng chỉ cần ngả lưng khoảng một canh giờ là đủ cho chàng .Sinh vốn có một sức khỏe dẻo dai nhờ chàng khéo vận động chăm sóc cơ thể trong nhiều năm trời, tuy là một chủ nhân ông và sắp bước vào tuổi “nhi bất hoặc” nhưng dáng dấp chàng chẳng khác một thư sinh,nhìn chàng,khó ai có thể tin số tuổi của chàng như thế và cũng khó ai biết đó là một đại doanh gia . Chàng đứng lên ôm tập hồ sơ đi xuống văn phòng làm việc với thuộc cấp,họ đang chờ sự hiện diện của chàng. Dù chàng vắng mặt ở văn phòng thì mọi việc vẫn chạy đều nhưng Sinh vẫn có thói quen làm việc sát cánh với nhân viên.

Ánh bình minh tỏa sáng hắt vào khung cửa sổ báo hiệu một ngày mới bắt đầu, chàng vươn vai hít sâu vào và thở ra mấy bận cho thư giãn rồi tiếp tục công việc thường nhật.Bị lôi cuốn theo công việc một cách tới tấp, chàng không có thời gian để nghĩ ngợi nữa, chàng dần dần quên mất sự kiện xảy ra chung quanh bài thơ kia sau khi đã cẩn thận lưu nhập vào cương điệp.

Ngày tháng tiếp tục trôi và công việc của chàng vẫn thế. Một hôm rảnh rang,chợt nhớ tới nhóm cựu đồng song thời niên thiếu hiện đang ngụ cư tại vài nơi ở hải ngoại ,Sinh lục đục tìm lại một số hình ảnh mà thời gian qua chàng ghi nhận được trong một vài buổi sinh hoạt với những bằng hữu cùng sống tại quê nhà , Sinh lóc cóc gõ một chương võng tín(email) cho các bạn và gửi mớ hình ảnh ấy đi.Thật là một điều quá sức ngạc nhiên khi Sinh nhận được vài đáp tín mà trong đó có một bức không lời lẽ nào khác hơn một bài thơ ngũ ngôn cũng viết bằng cổ ngữ.

Ngã nhất phiến mộ vân,
Phiêu du thiên hạo gian
Hốt khứ lai hợp tán
Như nhiên vong tạp trần.

Dịch

Lênh đênh một áng mây chiều,
Ta đi thăm thẳm liêu xiêu phương trời.
Chợt tan chợt hợp nổi trôi,
Lâng lâng quên hết chơi vơi bụi hồng).

Một áng mây chiều,
Áng mây chiều lững lờ trôi trong trời đất mênh mông, chợt đến rồi chợt đi, chợt tan rồi chợt hợp, hành tung bất định, lâng lâng nhẹ nhõm quên hết những vụn vặt phiền toái cõi trần gian. Một thần thái như nhiên phiêu hốt, là ai đây ? Ai muốn trêu ngươi với Sinh đây ?

Sinh tò mò dò lại võng tín chỉ (email address), chàng nhìn thấy một cái võng tín chỉ lạ quắc, nhưng rõ ràng là nó nằm trong danh sách của nhóm cựu đồng song,chàng cố nhớ xem các bằng hữu của mình có ai mang cái tên này không nhưng rồi chàng chịu thua. Lạ quá, bài thơ lại làm cho chàng thêm một phen ... điên đảo. Dường như bài thơ này là giải đáp câu hỏi của chàng vào cái đêm mộng mị canh thâu kia.

Bỗng dưng tính chất ... khôi hài... cố hữu trong con người Sinh trỗi dậy, chàng lẩm bẩm... “ À há, muốn bỡn cợt với ... bổn đại gia sao chứ, được rồi,ta nhất quyết phải tìm cho ra lẽ, chắc là một bằng hữu nào ... nghịch ngợm đây !” rồi chàng mày mò gõ một hồi tín:

Mộ vân phiêu ngai ngai
Thường y quyển hoa hài
Xuất thân hà danh tánh ?
Hựu vấn ... hà xứ ... lai ?

Dịch

Trắng xoá mây chiều lãng đãng bay

Áo xiêm quấn quít bước hoa hài

Xuất thân tên họ là chi đó?

Lại hỏi từ đâu đến chốn này ?



Bài thơ hồi đáp tiếp theo đó càng làm chàng ... kinh ngạc hơn.

Ngã lai vô sở thủy,
Ngã khứ vô sở chỉ.
Hà tất vấn ... xuất thân?
Khứ lai thả ... tự kỷ!

Dịch

Ta đến chẳng từ đâu
Ta đi không ngừng nghỉ.
Cần chi hỏi xuất thân?
Ðến đi hãy ... tự ý

Ðến nước này thì chàng hoàn toàn ... mù tịt, rõ ràng những bằng hữu mà chàng quen mặt biết tên không một ai có tính chất ... đùa dai với khả năng sử dụng cổ ngữ để làm những bài thơ như thế này cả, chàng tự hỏi... có phải đây là... hồn ma bóng quế của một Ðường Triều thi sĩ nào đó chăng ?Một Hàn Thúy Tần (1)thời đại điện não muốn bày trò “võng tín đề thi” chăng ?

Sinh hoang mang cực độ.Là chủ nhân của một công ty chế tác nhu liệu điện não, việc truy nguyên nguồn gốc một võng tín chỉ đối với chàng không phải là điều khó,chàng tận dụng mọi kỹ thuật hiện đại tối tân mà chàng có trong tay để tìm hiểu lai lịch bức đáp tín đó nhưng vô hiệu, chàng chỉ gặp một khoảng trống mênh mông không xuất xứ.Một mặt chàng cảm thấy... điên đảo với những gì chàng đã khám phá, mặt khác chàng cũng bắt đầu thích thú với trò chơi này rồi, chàng gõ bức thư tái đáp:

Ngã tại quân bất tại,
Quân ẩn hiện hữu thì.
Thị nhân hoặc thị... quỷ

khả cáo quân thị thùy,
Ta ở đây, nguời khuất,
Người khi hiện khi mất.
Là người hay là ma,
Là ai hãy cho biết.

Bức thư tái hồi đáp lần này lại khiến Sinh càng bàng hoàng hơn.

Thị thùy? Ngã bất thị thùy,
Thị sơn đầu lộ thị tùy phong vân,
Thủy lưu nguyệt chiếu man man
Thiên niên nhược hữu hựu hoàn lai vô.

Là ai ? Ta có là ai,
Là sương đầu núi, là mây lưng trời.
Nước trôi trăng chiếu bời bời.
Ngàn năm nếu đã có rồi cũng không.

Sinh ngạc nhiên quá đỗi, ngôn ngữ này không phải là của một thi nhân có khuynh hướng ... than mây khóc gió nhân sinh ái ố thường tình, nó man mác một vũ trụ quan chứa chan đạo vị.Phải là một người cũng thấm nhuần Phật pháp ít nhiều như Sinh vậy. Ngôn từ của bài thơ gợi lên cho chàng một niềm rung cảm nhẹ nhàng, ví như âm vang một tiếng đàn đã được bàn tay người nghệ sĩ tài hoa gõ đúng vào cung bực êm đềm,nhu nhã khiến tâm hồn chàng phát sinh một mối tương thông giao cảm.Nhưng mà tác giả là ai, tại sao nó được gửi đến cỗ máy của chàng một cách ... bí mật, lặng lẽ như vậy. Là ai đây ?Sinh gửi liên tiếp ba bức võng tín với mục đích hỏi cho ra lẽ thì lạ thay ba bức đều bị hoàn trả trở lại cho chàng,võng tín chỉ ấy đã không còn hoạt động,bặt vô âm tín,tuyệt tích tuyệt tung.Thế này thì Sinh ... điên đầu mất, nhưng chàng không chịu thua. Chàng phải tìm hiểu bằng cách khác mới xong.Chàng thảo một chương võng tín đặc biệt gửi cho tất cả các bạn cựu đồng song hỏi thăm về cái võng tín chỉ kia cùng mấy bài thơ nọ xem có ai biết được tác giả không nhưng rốt cuộc cũng chẳng tìm được chút manh mối nào.

@@@

Suốt tuần lễ bận bịu với bao nhiêu chuyến đi lại họp hành cùng đối tác thương mại ở thành phố Vũ Xương,hôm nay Sinh mới được thở phào nhẹ nhõm.Công việc hợp tác của đôi bên tiến triển theo chiều hướng thuận lợi khiến Sinh có thể trút được gánh nặng kể từ khi đặt bước chân đầu tiên xuống phi trường nằm trong địa bàng Vũ Hán, đô thị lớn đứng vào hàng thứ năm tại Sai Na .Mọi việc kết thúc sớm hơn chương trình hoạch định một ngày nên Sinh còn thừa thải thời gian rong chơi tùy nghi trước khi leo lên phi cơ trở lại Lạc Việt .Mặc dù được phía bên đối tác đề nghị cử người hướng dẫn chàng tham quan khung cảnh Vũ Hán và hưởng thụ lạc thú Nhất Dạ Ðế Vương nhưng Sinh thấy không hứng khởi nên chàng cảm ơn và từ chối,tuy nhiên chàng cho phép thuộc cấp tháp tùng được tự do,ai muốn đi chơi ở đâu tuỳ ý.

Nằm lại một mình trong lữ quán ,Sinh lan man liên tưởng tới công việc những ngày qua,liên tưởng tới khung cảnh nhiệt náo của thành phố Vũ Xương.Những đô thị trên đà phát triển của đất nước Sai Na sao bao năm dài ngủ yên thật là ngoài sức tưởng tượng của chàng,dù hằng ngày chàng vẫn theo dõi tin tức,báo chí và biết rằng Sai Na bây giờ không phải như xưa nhưng chưa đi tận nơi nhìn tận mắt thì cũng khó mường tượng được nó nhộn nhịp tối tân ra sao,chàng lại lan man nghĩ đến những khung cảnh ngày xưa mà chàng chỉ được biết qua sách vở,lịch sử khi còn là một thư sinh. À !Chàng lại nhớ ra một giai thoại. Ðịa danh Vũ Hán này có liên hệ đến một sự kiện văn học nổi tiếng hơn ngàn năm nay,đó là nhà thơ Thôi Hiệu và bài Ðường thi Hoàng Hạc Lâu .Không phải ngày xưa mỗi lần đọc bài thơ Hoàng Hạc Lâu là đầu óc chàng thường hay tưởng tượng ra một khung cảnh kỳ thú hạc vàng bay vút bóng chiều hay sao,sao chàng không nhân cơ hội này mà đi thăm viếng Hoàng Hạc Lâu một phen cho biết .Nghĩ là làm,chàng vội vàng liên hệ với chưởng quỹ lữ quán tìm hộ chàng phương tiện và phụ đạo lữ hành .Chỉ trong vòng nửa canh giờ chàng đã được một công ty lữ hành gửi xa phu và du xa đến tận lữ xá để đón chàng với một phí tổn phải chăng,xa phu cũng lại là phụ đạo nên càng thuận tiện cho chàng.Cũng may cho chàng là ý nghĩ bất ngờ của chàng có thể thành tựu được vì công ty lữ hành kia có quan hệ mật thiết với khách điếm chàng đang ở trọ .

Sinh thường không ưa thích chốn nhiệt náo đông người nên sau khi chấm dứt công việc,chàng hay tìm đến sự lặng lẽ ở một nơi chốn nào đó .Lần này đi viếng Hoàng Hạc Lâu là một việc ngoài chương trình nên dù không có thuộc cấp nào tháp tùng,Sinh vẫn cảm thấy thoải mái cho đó là việc phù hợp với sở thích của chàng . Mặc cho anh xa phu tự do làm công tác của anh ta,Sinh ngồi tựa đầu lên băng ghế nhắm mắt dưỡng thần thêm được lúc nào hay lúc ấy,cảnh trí hai bên đường tuy có lạ lẫm đối với Sinh nhưng thật ra đó chẳng có gì quan trọng,qua phim ảnh chàng đã thấy hằng ngày.

Sau khi hẹn với xa phu giờ giấc đến đón chàng trở về lữ quán.Sinh lẩn thẩn dạo quanh khu vực Hoàng Hạc Lâu Công Viên.Chàng trèo lên từng bậc thềm rồi quanh qua quẹo lại ghé chốn này một lúc vào chỗ kia một đỗi cả buổi trời ,cuối cùng Sinh cũng leo lên được tận lầu chín của Hoàng Hạc Lâu.Lầu Hoàng Hạc nằm trên Xà Cương về phía tây nam thành phố Vũ Xương.Nghe nói địa điểm lầu hạc vàng toạ lạc hiện tại không phải là vị trí nguyên sơ của nó.Theo Sinh biết thì ngôi Hoàng Hạc lâu đầu tiên được xây vào khoảng năm Hoàng Vũ thứ II đời nhà Ngô (Tam Quốc ố 223 Tây Lịch) đến nay đã được hơn 1700 năm.Thưở đó,chốn này là chỗ đặt vọng gác kiểm soát quân sự,quan sát và hướng dẫn thuyền bè qua lại trên Trường Giang hay còn gọi là Dương Tử giang.Lại có truyền thuyết trong một tửu quán tại đó có một thực khách hằng ngày cứ tới ăn chịu nhưng chủ quán thấy phong cách của vị này không tầm thường nên vẫn để cho ăn mãi đến cả năm.Ngày nọ vị thực khách kia nói với chủ quán: “Ta cám ơn ngươi đã tin tưởng ta mà để ta ăn chịu,nay ta đền ơn ngươi bằng một bức tranh hạc,nó sẽ giúp ngươi mở mang cơ nghiệp”.Nói xong vị khách vớ miếng vỏ cam vẽ nguệch ngoạc lên vách quán một con hạc màu vàng rồi bỏ đi,từ đó hễ có thực khách vào,chủ quán vỗ tay ba cái thì hạc nhảy ra múa hát.Vì hiện tượng lạ đó nên khách hàng ngày càng lui tới đông đảo khiến quán trở nên phát đạt,nhân đó mới đặt tên quán là Hoàng Hạc Lâu. Nhờ vị trí thuận tiện và phong cảnh hữu tình nên các tao nhân mặc khách thường hay lui tới đối ẩm ca ngâm(Tuy nhiên nó vẫn không nổi tiếng lắm cho đến khi nhà thơ Thôi Hiệu ghé qua và để lại bài thơ nức tiếng cả ngàn năm sau). Mười năm sau,vị thực khách kia trở lại tìm gặp chủ quán mà rằng:”Mười năm nay hạc vàng của ta đã giúp ngươi khá nhiều rồi, đã đến lúc phải đi thôi” .Nói xong,vị thực khách vẫy tay vời hạc trong tranh ra rồi leo lên lưng hạc mà bay vút.Truyền thuyết nói rằng vị thực khách ấy chính thực là tiên ông Lã Ðộng Tân.Lại có truyền thuyết khác nói là Phí Văn Vĩ.

Vì vị trí ngôi lầu ngày xưa nằm ở bên bờ sông hẹp nhất trên Trường Giang nên sau này người ta lấy chỗ đất đó để xây cầu và dời Hoàng Hạc Lâu vào sâu phía bên trong.Tuy vậy,đứng trên tầng cao chót của ngôi lầu được mệnh danh “ Mục cực thiên lâu” là có thể trông ra Trường Giang bát ngát, nhìn thành phố Hán Khẩu sầm uất,ngắm thị trấn Hán Dương phồn thịnh,trông ra Ðông Hồ,Sa Hồ,Nam Hồ nước biếc mênh mông.Bốn bề ngút mắt những sông hồ núi non xanh ngắt .

Ðứng trên tầng cao chót vót của Hoàng Hạc Lâu trông ra tứ phía,Sinh không khỏi ngỡ ngàng thất vọng.Tuy rằng cũng sơn thanh thuỷ tú,bát ngát Trường giang dòng nước cuốn,lung linh sương khói mặt hồ xa nhưng khung cảnh chẳng phải là một ngôi lầu cổ kính với cái không khí tịch mịch u nhã mà văn chương thi phú đã từng ca tụng,thay thế vào đó là cả một công viên có tính cách khai thác thương mại mà chung quanh là phố xá rộn ràng,nào thấy đâu cảnh “Hán Dương lịch lịch tĩnh xuyên thụ. Phương thảo thê thê Anh Vũ châu ”,lại càng không thấy gì là “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” cả.Sinh đứng tựa mình vào lan can,tần ngần nghĩ ngợi về tính chất vô thường của sự vật.Truyền thuyết và ngôi Hoàng Hạc Lâu này đã trải qua hơn một ngàn bảy trăm năm,đã biết bao lần ngôi lầu bị hư hỏng,bị huỷ hoại rồi lại được trùng tu,kiến thiết,biết bao nhiêu sinh diệt đã xảy ra. Ha, “Cổn cổn Trường Giang đông thệ thủy. Lãng hoa đào tận anh hùng .Thị phi thành bại chuyển đầu khôngàThanh sơn y cựu tại Kỷ độ tịch dương hồng à(2) ”.Quả đúng như vậy.Sinh thở dài thán tức .Nước con sông Trường Giang kia cứ miên miên tuôn chảy cuốn đi biết bao thành bại anh hùng,non xanh nước biếc mãi còn trơ,hết mây bay núi sớm rồi lại ráng phủ sông chiều, đời sống một con người chưa tới trăm năm,bận bịu lo toan,tính toán cân lường,ôi rốt cuộc rồi ta còn lại gì đây ???

Ðắm chìm trong suy tư trầm mặc, bỗng loáng thoáng một mùi hương chừng như là quen thuộc lắm chợt phất vào mũi chàng, mùi hương gợi lại cho Sinh một cảm xúc đặt biệt,một giây ngưng thần,Sinh chợt nhớ ra mùi hương này đúng là loại sạ hương đã phảng phất trong thư phòng của chàng đêm hôm kỳ bí nọ,chàng có ấn tượng rất sâu sắc với mùi hương này nên trong lúc bất thần nó gợi lại cho chàng đầy đủ những cảm giác hôm xưa,phản xạ tự nhiên khiến Sinh ngó quanh tìm xuất xứ của mùi hương đó,chàng bắt gặp một thiếu nữ độ chừng hai mươi ngoài,nhan sắc khá là mỹ miều,phong vận thanh tao, đứng tựa lan can cách chàng hơn mươi bước đang lãng đãng trông ra Trường Giang nước cuốn,thần thái của nàng thật là tiêu sái,phiêu dật. Phong cách của nàng có vẻ giống một khách du phương đến từ nước ngoài,hơn nữa Sinh nhận ra dường như nàng là người đồng hương với chàng.Vừa đúng lúc vị nữ lang ấy nhìn về phía chàng,Sinh khoan thai nhẹ gật đầu chào với nụ cười thân thiện hé trên môi,thiếu nữ cũng gật đầu trả lễ.Thấy nàng đi đứng một mình,Sinh tiến đến gần nói vài câu xã giao.Biết rằng Hoàng Hạc lâu là một địa điểm du lãm,hằng ngày có không biết bao nhiêu là khách du phương đến từ khắp nơi trên thế giới thăm viếng nên Sinh lịch sự dùng ngôn ngữ phổ thông nhất để bắt chuyện với nàng:

-Excuse me, missAre you Vietnamese ?Nàng mỉm cười đáp lại:

-Yes.I’m Vietnamese .Không để nàng kịp nói thêm,Sinh tiếp luôn :

-Tôi cũng người Việt, xin lỗi cô chúng ta có thể nói tiếng Việt với nhau được chứ ?Nàng mau mắn đáp ứng:

-Thưa vâng,tôi cũng mong như vậy .Sinh nhã nhặn tiếp theo:

-Xin tha cho tôi tội đường đột đã đến quấy rầy cô .

-Thưa ông,xin chớ nói vậy, ở đất nước người gặp được đồng hương là điều quý hóa,tôi cũng rất vui được tiếp chuyện với ông .

Sinh thành thực nói :

-Xin tha cho tôi tội đường đột lần thứ hai vì tôi phải nói rằng loại hương thủy mà cô nương đang dùng gợi nhớ cho tôi một vấn đề rất khó hiểu,tôi có một ấn tượng sâu sắc về nó,bất kể là cô có tin hay không cũng đều không quan trọng,chỉ vì tôi không dừng được cái ý tưởng phải thưa thật cùng cô .Cũng xin cô đừng nghĩ rằng tôi muốn tán tỉnh cô.

Thiếu nữ thẳng thắn đáp lời Sinh:

-Thưa ông,tôi tin là ông nói thực,tôi cũng tin là ông không có ý định tán tỉnh tôi.Có điều tôi cũng xin phép không tò mò vấn đề khó hiểu của ông vì tính tôi không thích tò mò,thứ nữa, tôi với ông gặp nhau đây chỉ trong chốc lát rồi đường ai nấy đi,việc ai nấy biết,tôi không muốn bận tâm vì những việc không phải của mình. Khung cảnh trước mắt chúng ta còn biết bao điều đáng suy ngẫm và đàm luận hơn.

Thấy nàng cởi mở, Sinh hào hứng tiếp tục câu chuyện, hỏi nàng từ đâu đến, đến với mục đích gì v.và,đồng thời Sinh cũng trình bày vắn tắt sự có mặt của chàng nơi đây,có điều Sinh dấu kín thân thế chủ nhân ông của chàng.

Rồi Sinh đem cảm tưởng của chàng về cảnh quang trước mắt làm quà cho câu chuyện và luận bàn chung quanh cảm khái này.Không ngờ nữ lang ấy,Như Nương, nói rằng nàng cũng đồng quan điểm với chàng.Câu chuyện tiếp tục qua lại. Nàng cho biết nàng từ đất nước Du Sa, đến Sai Na cùng phái đoàn lữ hành nhưng hôm nay phái đoàn đi thăm thú một vài nơi xa, nàng không muốn theo nên ở lại Vũ Xương, một mình đến viếng Hoàng Hạc Lâu cho thoả lòng ao ước từ bao nhiêu năm trời,nàng đã chuẩn bị, đã tìm hiểu về Hoàng Hạc lâu rất rõ nên không cần có người hướng dẫn, nàng còn nói thêm nguyên do nàng đến đây là vì bài thơ Hoàng Hạc lâu.Nàng vốn có hứng thú nghiên cứu cổ thi.Luận luận bàn bàn thêm một đỗi thì đã đến giờ hẹn với xa phu để trở về lữ quán,Sinh đành từ giã Như Nương trong nỗi ngậm ngùi luyến tiếc buổi hội thoại thú vị. Như Nương cũng nối gót chàng ra về sau đó.

Về đến lữ quán,Sinh còn đang đứng thẩn thơ tại phòng tiếp tân để chờ đợi chưởng quỹ giao trả chìa khoá phòng cho chàng thì ngẫu nhiên làm sao,Như Nương vừa đẩy cửa bước vào,cả hai đều “ồ” lên một tiếng kinh ngạc,thì ra Như Nương cũng trọ cùng lữ quán với chàng,thật là một điều bất ngờ.Sinh lịch sự ngỏ lời mời nàng cơm chiều tại phạn xá của khách điếm .Tao ngộ bất ngờ nhưng thêm một lần “Dữ quân nhất tịch thoại.Thắng độc thập niên thư(Một đêm bàn luận với anh hơn mười năm đọc sách)”,Sinh cảm thấy rất tương đắc với Như Nương nên trước khi chia tay trong phạn xá,cả hai cùng trao đổi võng tín chỉ để rồi sau đó trở lại nếp sinh hoạt theo chương trình riêng của mỗi người.Sinh sẽ cùng thuộc cấp trở về Lạc Việt ngày hôm sau,còn Như Nương thì theo nhóm lữ hành thăm viếng một vài địa phương khác trước khi trở lại Du Sa.Hai người hẹn sẽ thăm hỏi nhau qua hệ thống võng lạc.

@@@

Sau khi trao đổi qua lại dăm ba bức võng tín, đọc một số thi từ trước tác của Như Nương,Sinh thích thú khám phá ra rằng Như Nương có nhiều tính chất khá tương đồng với chàng,số tuổi thực của nàng cũng không kém chàng là bao,thảo nào tâm cảm của nàng thâm trầm sâu sắc dường ấy.Từ nhân sinh quan đến vũ trụ quan, từ tính chất con người đến sở thích cá nhân,chàng tìm thấy ở Như Nương nhiều điều trùng hợp. Ðiều mà Sinh cảm thấy thoải mái nhất là ngoài cái tài thơ trời phú,Như Nương còn có một tâm hồn phóng khoáng,trào lộng,nàng xem tiền tài danh vọng như nước chảy như mây trôi,nàng xem được mất thế gian như mưa chiều như nắng sớm,tiếng cười của nàng rộn rã giữa những bi lụy nhân sinh,đàm luận với nàng đôi khi Sinh có cảm giác như đang hội thoại với một bằng hữu cùng phái tính,thoải mái biết chừng nào.Nghe nàng nói thích nghiên cứu cổ thi,Sinh đem bài thơ Vấn thùy đã từng xuất hiện một cách đột ngột trên máy của chàng và những bài thơ gửi tới cho chàng bằng võng tín chỉ bí mật trước kia để nhờ Như Nương tìm kiếm ... lai lịch . Không ngờ Như Nương cho Sinh biết chính nàng là tác giả .Và nàng cũng thắc mắc rằng các bài thơ đó chưa từng phổ biến sao Sinh lại có trong tay. Câu trả lời càng khiến Sinh ... chới với ... muốn nổ tung cả ... cái đầu ra. Sinh biết rằng Như Nương không đùa, vì nếu như Như Nương gửi cho chàng dưới một võng tín chỉ A,B,C, gì đó với mục đích trêu ghẹo trước kia thì chàng đã truy nguyên được nguồn gốc của nó, bài thơ Vấn Thùy rõ ràng là do một người đã đích thân hạ tải xuống máy chàng từ một võng trạm nào đó và xóa đi mọi vết tích.Còn những bài thơ sau, chàng cũng đã từng dùng mọi kỹ thuật tối tân để truy nguyên nhưng vô hiệu quả.Vã lại chàng và Như Nương là hai người xa lạ,mới biết nhau sau giai đoạn xảy ra những bài thơ được gửi tới bằng võng tín chỉ bí mật kia thì không có một cơ sở nào vững chắc để cho rằng Như Nương đã làm chuyện đó.Và thêm một điều lạ nữa là khi chàng trao đổi võng tín với Như Nương thì chàng lại có cảm giác thân thương bao trùm tâm tư giống như đêm hôm nọ dù là khi hai người hãy còn xa lạ với nhau và đang ở cách xa nửa quả địa cầu.Chàng đem vấn đề ra hỏi thăm bè bạn nhưng không ai có thể giải đáp cho chàng.

Càng đi sâu vào sự tiếp xúc với Như Nương, Sinh càng thấy thú vị, chàng nhận ra một nỗi an lạc nhẹ nhàng tràn ngập tâm tư mỗi khi cùng Như Nương võng thoại . Ôi ! Bấy lâu nay chàng từng tự hào là người thành đạt lớn lao,sớm sủa trong đời, bên cạnh chàng lại có vợ hiền con ngoan, đáng lẽ chàng phải hài lòng với những gì chàng có trong tay một cách mỹ mãn, nhưng sao chàng lại không có cảm giác này, chàng cũng đề huề hạnh phúc bên thê nhi, nhưng chàng vẫn luôn cảm thấy một nỗi cô đơn trống trải không tên tuổi bủa vây lấy chàng trong những lúc canh khuya thanh vắng, những lúc cật lực đối phó với tình huống cực kỳ gai góc,khó khăn trên thương trường, chàng không có một người bạn tri giao nào để thổ lộ, để tâm tình những điều chàng khó mở miệng với thế gian dù là bạn bè thân tín, dù là các bào đệ của chàng bởi vì cái thế giá của chàng không cho phép.Trên bước đường gây dựng sự nghiệp,phải nói là chàng gặp rất nhiều may mắn,người đời nhìn chàng với cặp mắt nể nang,trọng vọng,người ta cứ nghĩ rằng chàng tuổi trẻ tài cao,họ không ngờ là chàng được lão thiên gia ưu đãi.Tuy nhiên cũng không phải là không có những giai đoạn bế tắc khiến chàng phải lâm vào hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, ít ai thấu hiểu được những nỗi chật vật của chàng lúc ấy. Ðối với bằng hữu,thuộc cấp và những đối tác thương mại chung quanh,chàng phải đứng vững với niềm tự hào như từ trước đến nay,vì thế chàng không thể kể lể,than vãn với ai. Hiền thê của chàng là một người vợ tốt, đúng nghĩa vợ hiền, nhưng nàng cũng không thể chia sẻ với chàng nhiều hơn,nàng đã quá bận rộn chăm sóc cho các công tử tiểu thơ chàng, công việc kinh doanh của chàng, hiền thê đã đặt hết tin tưởng nơi chàng nên không hề hỏi tới. Với Như Nương thì chàng không ngại ngần thố lộ những nỗi đắng cay nghiệt ngã mà chàng gặp phải,chàng nói mới nửa câu thì Như Nương dường như đã hiểu những gì chàng sắp nói tiếp khiến chàng nhiều lần phải kinh ngạc sững sờ.

Ôi chao ! Bây giờ thì chàng vừa chợt hiểu ra,hơn nửa đời người, trên đầu đã hai thứ tóc, chàng mới có thể hiểu được cái gì người ta ví von là ... một nửa ... của tâm hồn,cái mà từ trước đến giờ nghe ai nhắc tới thì chàng được dịp cười cợt cho rằng đó là điều không tưởng, đó là lời đầu môi chót lưỡi thêu dệt thêm thắt của hạng thi văn sĩ rỗi hơi .

Với một địa vị giống như chàng ngày hôm nay trong xã hội, thế tục nam nhân đã hưởng thụ tối đa đời sống cho xứng đáng với câu châm ngôn thời đại mới “ Tư bản đích ý tứà thị... sở hữu đa kim ngân àđa nữ nhân...”( Tư bản nghĩa là có nhiều tiền và nhiều đàn bà) một cách thản nhiên, coi đó là việc bình thường như ăn cơm, như đi ngủ .Mà Sinh... kim ngân thì chàng không thiếu, còn nữ nhân... than ôi ! đào chi yêu yêu mỹ nữ chung quanh chàng dập dìu,chàng từng giao tiếp biết bao mỹ nhân trong thiên hạ,chàng từng đối diện biết bao dung nhan mỹ miều,sao chàng không hề cảm thấy xuyến xao rung động trước một ai,mà Như Nương kia ... thiên trùng viễn cách,tuyết sương kinh lịch chi hoa,sao chàng lại có thể nảy sinh một cảm giác lạ lùng như thế, lòng chàng không thể nào dứt bỏ được mối quan tâm về Như Nương . Một mặt khác chàng cũng được biết đằng sau nét trào lộng của Như Nương chất chứa cả một trời ... truân chuyên.Như Nương có một hệ lụy nhân sinh đầy nước mắt mà nàng,tuy không hề hở môi, nhưng Sinh vẫn cảm nhận được qua hơi hướm trong thi ca của nàng.Sinh ái ngại cho nàng.Chàng thấy lòng mình... xót xa, nhưng chàng khó thể làm được gì hơn, chàng tôn trọng, quý mến Như Nương, nên chàng không dám tỏ một thái độ nào có thể làm tự ái Như Nương bị va chạm, chàng biết với sự mẫn cảm sâu sắc của Như Nương, nàng sẽ rất dễ dàng cảm thấy bị .. tổn thương. Dù vậy,chàng vẫn... mơ ước... dù chàng biết rằng đó chỉ là ... ảo mộng. Chàng có nên tin vào cái câu “ Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Vô duyên đối diện bất tương phùng” kia chăng.Mà là duyên gì đây ? Chàng và Như Nương đã có mối duyên gì từ kiếp xa xưa mà hôm nay trời đất rủi dung tương ngộ một cách trớ trêu như thế . Chàng vẫn nghe các bậc cao tăng giảng giải rằng mỗi cuộc gặp gỡ của nhân sinh trên cõi thế gian này đêu có nghiệp duyên ràng buộc an bài từ trước,và những con người cùng tần số rung động của tư tưởng sẽ có khuynh hướng tụ hội về một phương với nhau?Phải chăng chàng và Như Nương có một tương quan nào đó trong tiền kiếp xa xưa ?

Nhiều phen chàng tự hỏi có phải mình quá đa tình không ?Chàng thường rất dễ dàng rung động trước cái đẹp mà tạo hóa ban bố cho nhân loại,bất cứ là cái đẹp nào.Một câu thơ ,một điệu nhạc,một khung cảnh thiên nhiên,một dung nhan phiêu lượng v.vàđều có thể khiến chàng ngưỡng mộ một cách chân chân thành thành.Huống chi bây giờ, gặp gỡ một Như Nương tài mạo cao vời,thần thái phiêu nhiên,tâm cảm hào phóng, ngôn phong nhu nhã,đạo vị thâm trầm v.và phù hợp với tính chất của chàng như thế,cộng thêm bao kỳ tích đã xảy ra dạo trước mà cho tới giờ này chàng còn chưa tìm được nguồn gốc,bảo sao chàng không bị lôi cuốn vào một cơn mộng mị ảo huyền điên đảo. Bao đêm trằn trọc suy tư, Sinh nhiều phen tự hỏi lòng mình rằng cái tình cảm chàng dành cho Như Nương có làm chàng lỗi đạo với hiền thê chăng,liệu chàng có đủ nghị lực để chống chọi với tình cảm sâu sắc này không ?

Ôi ! Hạnh phúc của thế gian này sao lại lắm điều mâu thuẩn đến như thế ?Lắm bạc nhiều tiền... như chàng, vợ hiền con ngoan ... như chàng nhưng nếu hỏi chàng có thực sự hạnh phúc hoàn toàn không, chàng không biết phải trả lời sao. Nói có cũng không xong mà nói không thì nghe ... phi lý quá.Chung quanh chàng, biết bao trường hợp hạnh phúc giả tạo vì người ta cố gắng giữ lấy những cái gọi là mặt mũi,là danh dự. Chàng từng biết chẳng ở đâu xa,ngay trong giới thượng lưu xã hội mà chàng thường giao tiếp,nhiều gia đình mới nhìn vào ai cũng tưởng đó là một gia đình đạo đức,hạnh phúc. Nhưng than ôi,càng quan hệ sâu xa,càng thấy rõ những vấn đề phức tạp tiềm ẩn bên trong,cái bình phong hào nhoáng bên ngoài,cái vỏ hạnh phúc đạo đức bên ngoài không biết rồi sẽ sụp đổ trong lúc nào. Chàng vẫn thầm hãnh diện là gia đình chàng đã không nằm trong những trường hợp ấy.Vậy mà giờ đây sao chàng lại nảy sinh ra một mối tình cảm khó nói này,có phải chàng vẫn còn nặng lòng phàm lắm chăng ?Có phải chàng rồi cũng giống như những người đàn ông khác?Chàng được quyền hưởng thụ đời sống giống như họ chăng? Chàng trân trọng,yêu quý hiền thê,không dám làm gì để khổ lụy cho vợ hiền, nhưng đồng thời,trái tim của chàng cũng đang thổn thức, kêu gào được nói lên tiếng nói chân thực của nó bởi nó cứ bị chàng đè nén luôn.

Xưa nay chàng đã tự cho mình rất nhiều quyền hạn quyết định ... vận mạng của con người, vì lòng nhân hậu,vì tự ái làm đàn ông cũng có. Tuy chưa làm điều gì thương thiên hại lý nhưng nếu chàng muốn thay đổi vận mạng một con người để nó tốt đẹp hơn thì chàng có thể làm việc ấy không chút lưỡng lự đắn đo.Nhưng lần này, đối với Như Nương ,xem ra không dễ cho chàng . Như Nương không phải là một cánh hoa hèn chờ người cho cơ hội được chưng bày trong bình gấm lọ ngọc của nhà quyền quý.Như Nương với chàng vừa gần gũi, vừa xa lạ. Tâm cảm, tư tưởng của Như Nương dường như đã nằm sẵn đâu ở tận gan ruột,tim óc của chàng nhưng chàng mường tượng được cái thần thái phiêu phiêu hốt hốt cười cười cợt cợt của Như Nương, hễ chàng đứng yên thì thôi, chàng mà giơ tay lên toan nắm bắt thì nó chợt tan biến đi như mộng ảo, như khói sương.Dường như Như Nương cũng biết tâm tư chàng đang bị xao động nên nàng cứ chập chờn tránh né chàng luôn.Ngôn từ của nàng bóng gió xa xôi cho Sinh ngầm hiểu rằng nàng cũng có hảo cảm với chàng, nhưng nàng không thể đi quá giới hạn của một tri kỷ chi giao. Ðiều này càng khiến Sinh điên đầu hơn. Gia đình thê tử của chàng quan trọng đối với chàng nhưng những mối tương quan đẹp đẽ giữa người và người với nhau cũng không phải không kém phần quan trọng trong đời sống của một con người .Tài hoa của Như Nương,giá trị của Như Nương không thể đặt để ở một vị trí tầm thường ,chàng phải làm như thế nào đây ?

Bao đêm một mình lặng lẽ làm việc trong thư phòng,Sinh trầm tư nghĩ ngợi triền miên, Sinh nghĩ mà giận ... lão thiên gia vì lão đã cố tình trêu ngươi chàng, nhưng rồi chàng lại thấy lão thiên gia cũng đã ưu đãi chàng lắm . Kìa còn biết bao người mỏi mắt đi tìm mà cả đời cũng không tìm được.Còn chàng,tuy là thiên trùng viễn cách,tuy là trớ trêu nhưng cũng đã khiến lòng chàng thêm ấm áp, đã có người lắng nghe nỗi niềm của chàng,hiểu được chàng như chính bản thân của đương sự thì chàng còn đòi hỏi gì hơn,chàng còn mong mỏi nắm bắt được cái vô hạn trong đời sống hữu hạn này thì không phải là chàng quá tham lam sao ? Sinh bàng hoàng ngây ngất. Thật là may mắn, hạnh phúc cho chàng biết bao, nhưng mà cũng trớ trêu thay,hỡi ơi ! Chàng chỉ có thể xem Như Nương như là một ... hồng nhan tri kỷ trong đời mà thôi.Chàng đành phải chuyển hóa mối tình cảm cá nhân kia thành một tình cảm vị tha,vì người chứ không vì ta.Huống chi chàng còn nghe ai đó nói rằng mối tương quan giữa một đôi tri kỷ bền chặt hơn,cao thượng hơn mối tương quan giữa một đôi tình nhân bởi vì tri kỷ không đòi hỏi đối phương một trách nhiệm,một bổn phận nào,tri kỷ chỉ lắng nghe, ủng hộ và yểm trợ chớ không dành quyền quyết định.Mối tương quan giữa tri kỷ nhẹ nhàng thoải mái nên không có những phiền toái vụn vặt từ những việc đâu đâu.Chàng chợt nhớ đến hai câu thơ cổ “Xuân phong mãn diện giai bằng hữu .Dục mịch tri âm nan thượng nan” trong tích Bá Nha Tử Kỳ.Ôi ! Tìm được một tri âm tri kỷ quả đúng là “nan thượng nan”.Huống hồ là một hồng nhan tri kỷ .

Câu chuyện kỳ lạ xảy ra dạo trước đã không thể không khiến Sinh phải ... động não suy gẫm tìm tòi.Chàng có cảm tưởng giống như có một chủ thể khác không ở dạng vật chất hữu vi của Như Nương trong một thế giới vô hình nào đó đã âm thầm đến tận thư phòng đùa cợt với chàng trong giây lát rồi ra đi.Chàng vẫn nghe có một khoa học gia (Áo Ba Yên Tiên Albert Einstein)đề xướng ra thuyết Siêu Thiên Ty Super String), thuyết này cho rằng mọi vật chất hiện hữu trên thế gian này chỉ là một phần tử rất nhỏ trong cái tổng thể bao trùm ở khắp mọi nơi trong vũ trụ, do nhân duyên mà biến hiện không lường.Mọi vật chất ở thế gian này phân tích cho kỳ cùng thì chỉ còn lại là Sóng (Waves) và tần số chấn động (Vibrations), con người thấy được sự vật hay một người khác là do cả hai đang ở trong cùng một tần số . Mô hình vũ trụ của Tư Phân Học Kính (Stephen Hawking) dựa theo thuyết Siêu Thiên Ty cũng cho rằng cùng lúc tồn tại vô số những con người khác nhau trong một con người. Và cùng lúc, tất cả thông tin về vũ trụ ở mọi thời đại đều hiện hữu. Vì thế, hiện tượng “linh cảm” , “tâm linh tương thông”,có thể giải thích bằng việc một con người nào đó trong bạn đã trải nghiệm điều mà bạn sẽ trải qua, và mách bảo cho bạn biết điều đó.Chàng lại nhớ đã đọc được ở đâu đó trong sách vở của hội Thông Thiên Học nói rằng một con người khi sinh ra thì tất cả hành động từ trong quá khứ cũng như tương lai đã được cấu tạo thành hình ảnh bởi nghiệp lực do tư tưởng dẫn dắt, được các nhà Thông Thiên Học mệnh danh là “Hình tư tưởng”.Các hình tư tưởng này nằm đâu đó trong không gian và bất cứ một hình nào, hoặc ở trong quá khứ,hoặc ở trong tương lai, có thể bị một người khác hay chính người đó bắt gặp khi hội đủ yếu tố nhân duyên vào một lúc bất chợt nào đó.Chính vì thế mà có khi đang làm một hành động nào đó ta chợt nhận ra hành động này dường như ta đã từng làm qua rồi mặc dù đây là lần đầu tiên ta hành động như thế.Cũng chính vì thế mà các nhà tiên tri mới có thể nói chuyện àtiên tri. Có phải là tưởng thức Sinh tình cờ bắt gặp một hình tư tưởng của Như Nương trong một kiếp xa xưa nào đó chăng.Có phải vậy chăng, chàng không dám khẳng định nhưng không còn giả thuyết nào khả dĩ thích đáng hơn để lý giải trường hợp này.Chàng đem giả thuyết này nói cho Như Nương nghe thì nàng cười... ha ha trong bức võng tín hồi đáp cho chàng... “...Thì cứ coi như là ... chúng ta có cùng tần số rung động nên một con người khác của Như Như này, ở trong một thế giới khác, đã làm nên tất cả những việc ấy để dẫn dắt cho chúng ta tương ngộ mà Như Như ở thế giới hữu hình,hữu hạn này không hề hay biết chẳng cũng ... thú vị hơn sao, cõi đời này vốn đã không hiếm gì những điều... huyền diệu xảy ra mà chúng ta không có cách nào... lý giải, hỡi vị ... hảo bằng hữu... thiện tri thức... tri kỷ chi giao ... của tôi ơi,ha ha ha...!!!”

HẠT CÁT

Chú thích
(1)Tích :Hồng diệp lương môi ( Lá thắm duyên lành)

Chuyện rằng đời nhà Ðường, có nàng cung nữ tài hoa tên Hàn Thúy Tần nhưng không được vua yêu, nàng sống trong cung buồn chán, có một ngày viết một bài thơ lên lá, thả trôi theo dòng nước :

Dịch âm

Lưu thủy hà thái cấp
Thâm cung tận nhật nhàn
Ân cần tạ hồng diệp
Hảo khứ đáo nhân gian

Dịch thơ

Nước trôi sao quá vội
Cung thẳm suốt ngày nhàn
Ân cần ơn lá thắm
Xuôi êm về nhân gian

Bài thơ này rơi vào tay của chàng nho sĩ Vu Hựu, chàng viết lại 1 bài, thả ngược vào cung,

Dịch âm

Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi
Thượng Dương cung nữ đoạn trường thì
Quân ân bất cấm đông lưu thủy
Diệp thượng đề thi ký dữ thùy ?

Dịch thơ

Ngắm liễu nghe oanh thoáng cảm hoài
Cung cấm người đang buổi ngậm ngùi
Nước trôi không xiết ngăn tình ấy
Trên lá thơ đề gửi đến ai

Không ngờ Hàn thúy Tần cũng nhặt được, nàng giữ bên mình. Mấy năm sau, vua cho vài trăm cung nữ về quê, tình cờ VH & HTT gặp nhau, cưới rồi mới biết là đã từng quen, từ đó càng thêm tin vào duyên phận, vợ chồng đầm ấm với nhau đến già.
Lúc hai bên nên duyên chồng vợ, HTT kết thúc câu chuyện tình đẹp của mình:

Dịch âm

Nhất liên giai cú tùy lưu thủy
Thập tải ưu tư mãn tố hoài
Kim nhật khước thành loan phượng lữ
Phương tri hồng diệp thị lương mai

Dịch thơ

Ðôi câu thơ nhã theo làn nước
Tâm sự mười năm chất chứa đầy
Ngày nay đã kết nên loan phượng
Mới hay lá thắm thuận duyên may

(2)Nhạc phim Tam Quốc Diễn Nghĩa

(3)Tích Bá Nha Tử Kỳ

Theo sách Lã thị xuân thu: “Bá Nha cổ cầm, Chung Tử Kỳ tại ngoại thiết tính chi viết: nguy nguy hồ như thái sơn, dương dương hồ như lưu thủy” (Bá Nha gảy đàn, Chung Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm , khen rằng: ngun ngút như núi Thái Sơn, cuồn cuộn như dòng nước chảy.

Vào lúc Tấn, Sở đang giao hảo nhau. Bá Nha là người nước Sở, nhưng lại làm quan đến chức Thượng đại phu của nước Tấn. Bá Nha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất đời; ngày liền đêm, Bá Nha không bao giờ rời cây Dao cầm thiết thân của mình.

Năm ấy, trên đường từ Sở về lại Tấn sau sau chuyến công cán, Bá Nha cho thuyền đỗ lại bến Hàm Dương vào một đêm trăng thanh gió mát. Bá Nha cho đồng tử đốt lư trầm trước thuyền, rồi lấy Dao cầm ra so phím thử dây. Dưới ánh trăng trong, tiếng đàn quyện lấy hương trầm đang cất vút lên cao giữa đêm thu thanh vắng, bỗng một tiếng “ bựt “ khô khan, dây tơ đồng đứt. Bá Nha nghĩ dây đàn đứt ắt có quân tử nào nghe lén đây, bèn sang sảng cất tiếng:

- Có cao nhân nào trên bờ lắng nghe tiếng đàn của tại hạ, xin vui lòng ra mặt.

Từ trên vách núị có tiếng vọng xuống:

- Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành.

Bá Nha cười lớn:

- Tiều phu nào mà lại dám nói chuyện nghe đàn với ta?.

Tiếng nói từ trên núi lại đáp lại:

- Ðại nhân nói vậy, kẻ hèn này trộm nghĩ là không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của người xưa: “Thập nhất chi ấp tất hữu trung tín” (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ trong nhà có quân tử thì ngoài cửa ắt có người quân tử đến...

Bá Nha có vẻ ngượng khi nghe câu nói của người tiều phu. Biết mình lỡ lời, ông tiến sát đến mũi thuyền nói lớn:

- Nếu thật là người trên bờ biết nghe đàn, thì xin cho biết lúc nãy tại hạ đã đàn khúc gì?.

Giọng trên bờ bình thản vọng xuống:

- Ðó là Khổng Vọng Vi, Ðức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi. Hồi nãy, đại nhân đang đàn thì đứt dây, nên còn thiếu mất câu chót.

Nghe xong, Bá Nha thấy lòng phơi phới lạ, vội sai tùy tùng lên bờ rước người tiều phu xuống thuyền. Bá Nha trân trọng đón tiếp:

- Quý hữu biết nghe đàn, vậy chắc cũng rõ được xuất xứ của cây Dao cầm?

Tiều phu không ngập ngừng:

- Nghe nói, thuở xưa vua Phục Hy tình cờ trông thấy có năm sắc sao rơi xuống cụm ngô đồng và chim phượng hoàng đến đó đậu. Vua biêt cây ngô đồng là thứ gỗ quý, hấp thụ tinh hoa của trời đất, có thể dùng để làm nhạc khí được, liền cho người hạ cây, cắt làm ba đoạn Ðoạn ngọn, tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoạn giữa tiếng vừa trong vừa đục. có thể dùng được. Nhà vua cho ngâm đoạn giữa thân cây giữa dòng nươc, đúng bảy mươi hai ngày đêm, vớt lên phơi trong mát cho thật khô rồi gọi người thợ giỏi Lưu Tử Kỳ đẻo thành cây Dao cầm. Dao cầm dài ba thước sáu tấc, một phần án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên, mặt trước rộng tám tấc, án theo tám tiết, mặt sau rộng bốn tấc án theo bốn mùa, bề dày hai tấc án theo lưỡng nghi. Ðàn gồm mười hai phím, tượng trưng cho mười hai tháng trong năm , lại có thêm một phím phụ tượng trưng cho tháng nhuận. Ðàn có năm dây án theo ngũ hành tượng trưng cho năm âm: cung, thương, giốc, thủy, vũ. Xưa, vua Thuấn gảy đàn Ngũ huyền, thiên hạ thái bình. Khi vua Văn Vương bị ngồi tù nơi Dũ Lý, Bá Âp Khảo thêm một dây oán, gọi là văn huyền (dây văn).

Về sau, khi Vũ Vương đánh nước Trụ, thêm môt dây nữa gia tăng kích động gọi là vũ huyền (dây vũ). Do đó, Dao cầm lúc đầu có năm dây, sau có bảy dây. Dao cầm có bốn điều kỵ là: rét lớn, nắng lớn, gió lớn và tuyết lớn; và bảy điều không nên là: không đàn ở đám tang, không đàn lúc lòng rối loạn, không đàn lúc lòng không thanh bạch, không đàn lúc bận rộn nhiều việc, không đàn lúc y trang không chỉnh tề, không đàn lúc không có trầm hương và không đàn lúc không có bạn tri âm.

Bá Nha nghe nói, biết tiều phu là bậc kỳ tài, đem lòng kính thương:

- Hiền hữu quả là người tinh thông nhạc lý. Xưa kia, Khổng Tử đang gảy đàn, thầy Nhan Hồi bước vào, nghe thanh âm sao mà u trầm, biết là trong tâm Khổng Tử đang giao động . Hỏi ra, mới hay là trong khi Khổng Tử đàn, thấy con mèo đang bắt chuột, nên tâm tư đã chùng tiếng tơ đồng. Trước kia, Nhan Hồi nghe tiếng đàn mà biết được lòng học trò, còn ngày nay, nghe tiếng đàn Bá Nha này , hiền hữu có biết lòng ta đang tư lự gì không?

- Xin đại nhân cho nghe một vài khúc nhạc nữa
Bá Nha thay dây đàn, gảy khúc Ý tại non cao.

Tiều phu ngẩng mặt mỉm cười:

- Tuyệt thay, ý chí cao vút. Ý tại non cao.

Bá Nha giật mình ngưng đàn. Một lúc sau gảy thêm khúc Ý tại lưu thủy.

Tiều phu khua tay xuống dòng nước:
- Trời nước bao la. Ý tại lưu thủy.

Bá Nha thất kinh, nhìn người tiều phu không ngớt mắt, sao lại có người cảm thấu được tiếng đàn của mình như vậỵ Ông sai nguời hầu dẹp trà, bày tiệc rưọu. Xong, ông đứng lên trước mặt người tiều phu, kính cẩn hỏi:

- Dám hỏi tiên sinh quý danh và quê quán.
Tiều phu vội đứng lên, chắp tay thi lễ:

- Tiện dân họ Chung, tên Tử Kỳ, người thôn Tập Hiền gần núi Mã Yên nàỵ Còn đại nhân, chẳng hay cao danh quý tánh là gì, hiện đi trấn nhậm nơi đâu mà ghé thuyền lại đây vãng cảnh.

- Tại hạ họ Du tên Thụy, là Ðại phu nuớc Tấn, nhân đi sứ nước Sở về, thấy cảnh Hàm Dương trăng thanh gió mát, nên ghé thuyền thưởng lãm. Tại hạ chỉ là một kể tài hèn đức bạc mà thôi. Còn như tiên sinh đây học thức uyên bác cớ sao không xuất thân lập công danh, phò vua giúp nước, mà lại sống ẩn dật chốn núi non hẻo lánh này.

- Tôi còn cha mẹ già, không có anh em, phận làm con phải lo tròn chữ hiếu, dẫu cho công hầu khanh tướng cũng không thể đổi được một ngày báo hiếu của tại hạ

Tử Kỳ hai mươi bảy tuổị Bá Nha trân trọng nói:

- Tiện chức hơn tiên sinh những mười tuổi. Nếu tiên sinh không chê tôi đức mọn tài hèn thì xin kết làm anh em để khỏi phụ duyên tri âm.

Chung Tử Kỳ khiêm nhượng đáp:

- Ðại nhân là bậc công khanh nơi triều đình, tại hạ là kẻ áo vải chốn sơn lâm thì làm sao kết bạn với nhau được, xin đại nhân miễn cho.

- Giá trị con người đâu ở chỗ giàu sang phú quý, mà ở đức hạnh tài năng. Nay nếu tiện sinh chịu nhận làm anh em thì thật là vạn hạnh cho tiện chức.

Bá Nha đã có thành tâm, Tử Kỳ không từ chối nữa.. Bá Nhà sai người hầu đốt lò hương mới, lập hương án trước thuyền, cùng Tử Kỳ lạy trời đất tám lạy, nhận nhau làm anh em khác họ Rồi hai bạn cùng đối ẩm chuyện trò với nhau rất chi là tương đắc.

Ðến lúc ánh trăng nhạt nhòa, tiếng gà eo óc gọi ánh nắng mai, đôi bạn đành phải chia taỵ Bá Nha giọng run run, nhìn Tử Kỳ:

- Lòng huynh quá cảm mộ, chưa nỡ rỡi hiền đệ Hiền đệ có thể cùng huynh đi thêm một đoạn đường để thêm được một khúc chuyện trò cho thỏa mối tâm tình.

Chung Tử Kỳ cũng không dấu được xúc động:

- Theo lễ, tiểu đệ phải tiễn hiền huynh vài dặm đường mới phải, ngặt vì song thân của tiểu đệ đang trông ngóng ở nhà, xin hiền huynh thứ lỗi.

- Vậy thì hiền đệ về nhà xin với song đường qua nước Tấn thăm chơi, chắc là sẽ được nhận lời.

“Phụ mẫu tại tồn , bất khả viễn du”, làm sao Tử Kỳ có thể rời cha mẹ để vui chơi cùng bạn được. Cuối cùng, Bá Nha nắm tay Tử kỳ, giọng khẩn thiết:

- Sang năm, cũng vào giờ này, xin hẹn hiền đệ tại đây.

Rồi lấy ra hai nén vàng, hai tay dâng cao lên trước mặt:

- Ðây là món lễ vật mọn của ngu huynh làm quà cho bá phụ, bá mẫu, đã xem nhau là cốt nhục xin hiền đệ chớ từ chối.

Cảm tình tri ngộ, Tử Kỳ không từ chối. Lưu luyến chia tay, đôi bạn bịn rịn không thốt lên nỗi lời tạm biệt.

Thấm thoắt một năm qua, ngọn gió heo may từ phương Bắc về đem mùa thu đến. Bá Nha vào triều kiến vua Tấn xin được phép về Sở thăm quê nhà. Thuyền đến bến Hàm Dương, Bá Nha cho dừng lại dưới núi Mã Yên. Lòng bồn chồn trông ngóng. Vừng kim ô đã ngả bóng xuống lòng sông, khói sóng dâng lên nghi ngút, sao mãi vẫn không thấy bạn tri âm. Bá Nha cho đồng tử đốt lò hương, rồi lấy Dao cầm đàn một khúc. Trong cơn gió nhẹ đầu thu, Bá Nha bỗng nghe tiếng đàn của mình sao mà ai oán, não nùng. Bá Nha thất kinh, ngừng tay đàn, tâm thần rối bời ; cung thương bỗng nghe sầu thảm như thế này thì chắc là Chung Tử Kỳ gặp nạn lớn rồị Cả đêm, Bá Nha trăn trở, nhớ thương và âu lo cho bạn. Trời chưa sáng, Bá Nha đã khoác cây Dao cầm lên lưng, bỏ vào túi mười nén vàng ròng rồi cùng vài tên hầu tìm đến chân núi Mã Yên . Dọc đường. gặp một ông lão, tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc. Bá Nha lễ phép thưa:

- Xin lão trượng chỉ đường đi đến Tập Hiền thôn.

- Có Tập Hiền thông thượng, Tập Hiền thôn hạ. Tiên sinh cần đến thôn nào ?

- Thưa lão trượng, người Tử Kỳ họ Chung ở thôn nào?

Vừa nghe nhắc đến tên Chung Tử Kỳ, lão ông sa sầm nét mặt, đôi mắt trũng sâu chảy dài hai hàng lệ. Lão ông sụt sùi, giọng ngắt đoạn:

- Chung Tử Kỳ là con lão. Năm ngoái cũng vào ngày này, nó đi củi về, gặp một vị quan nước Tấn tên là Bá Nha và kết nghĩa huynh đệ vì chỗ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Lúc chia tay, vị quan có tặng cho vợ chồng lão hai nén vàng. Ở nơi núi non heo hút thế này, vợ chồng lão chưa cần đến số vàng đó, nên con lão đã dùng đổi lấy sách, đọc bất kể ngày đêm, giờ giấc , ngoài việc đốn củi mưu sinh. Có thể vì quá lao nhọc, con lão đã lâm bệnh mà qua đời...

Chưa kịp nghe hết lời, Bá Nha đã bật òa khóc, ôm chầm lấy ông lão, hậu sinh này chính là người bạn kết giao của Chung Tử Kỳ đây. Ông lão thảng thốt, trời ơi:

- Mang ơn đại nhân không chê trách cảnh bần cùng, đã cùng con lão kết nghĩa tâm giao. Lúc lâm chung, con lão đã trối trăn lại: “ Sống không trọn đạo làm con, chết xin được chôn dưới chân núi Mã Yên để trọn đạo nghĩa với bạn, nằm bên triền dốc chờ đúng lời hẹn mùa thu này” Con đường mà đại nhân vừa đi qua phía bên phải có nấm đất nhỏ là ngôi mộ của Tử Kỳ. Hôm nay đúng một trăm ngày mất, lão vừa đi viếng mộ con về thì gặp đại nhân.

Trước mộ Tử Kỳ, Bá Nha vừa lạy bạn xong, truyền đem đàn đến, ngồi trên tảng đá tấu khúc “Thiên thu trường hận”. Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm hẳn xuống. Tiếng gió ngàn rít mạnh, bầu trời trở màu tối sẩm và tiếng tiếng chim từ xa vọng về nghe u uất não nùng. Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít, trời trong sáng trở lại, chim ai oán lặng tiếng. Bá Nha nhìn Chung lão thưa:

- Tử Kỳ đã về đây chứng giám cho lòng thành của tiểu sinh. Cháu vừa đàn khúc đoản ca để viếng người tri âm tài hoa mệnh yểu, và xin đọc thành thơ đoản ca này:

Ức tích khứ niên xuân
Giang biên tằng hội quân
Kim nhật trùng lai phỏng
Bất kiến tri âm nhân
Ðản kiến nhất bồi thổ
Thảm nhiên thương ngã tâm
Thương tâm thương tâm phục thương tâm
Bất nhẫn lệ châu phân
Lai hoan khứ hà khổ
Giang bạn khởi sầu vân
Tử Kỳ, Tử kỳ hề !
Nhĩ, ngã thiên kim nghĩa
Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ
Thử khúc chung hề bất phục đàn
Tam xích Dao cầm vị quân tử

Dịch thơ

Nhớ chuyện cũ mùa xuân năm trước
Bên ven sông gặp được tri âm
Năm nay lại ghé về thăm
Mênh mông trời nước tri âm đâu rồi
Chỉ thấy đó ngậm ngùi nấm đất
Cõi lòng này chất ngất thương tâm
Thương tâm thương tâm thương tâm
Khôn ngăn giọt lệ đầm đầm tuôn rơi

Vui chưa thỏa ngậm ngùi đau khổ
Bãi sông kia mây phủ rầu rầu
Tử Kỳ ơi biết lòng nhau
Người,ta nghĩa trọng tình sâu ngàn vàng
Trải trời đất chẳng kham lời cuối
Khúc này xong nào nuối tiếc chi
Dao cầm ba thước ích gì
Dang tay đập vỡ hãy vì tri âm !

Lời thơ vừa dứt, Bá Nha nâng Dao cầm lên cao, đập mạnh xuống tảng đá. Dao cầm vỡ tung từng mãnh, trụ ngọc, phím đồng rơi lả tả. Lão ông hoảng kinh, sao đại nhân lại đập vỡ đàn quí. Bá Nha đáp lời bằng bài thơ tứ tuyệt:

Toái phá Dao cầm phượng dĩ hàn
Tử Kỳ bất tại,đối thùy đàn ?
Xuân phong mãn diện giai bằng hữu
Dục mịch tri âm, nan thượng nan
(Dao cầm đập nát đau lòng phượng
Vắng Tử Kỳ rồi đàn với ai
Gió xuân bốn phía bao bè bạn
Muốn được tri âm khó lắm thay

Bốn câu thơ là bài văn tế cho bạn. Bá Nha quay lại phía lão ông, sụp quỳ xuống:

- Tử Kỳ, Bá Nha đã y lời hẹn đến đây rồi .Nay tiểu sinh có đem theo ít nén vàng, xin thành tâm dâng lên bá phụ cùng bá mẫu để cung dưỡng tuổi già và tạo mươi mẫu ruộng làm tự cho Tử Kỳ. Bốn năm nữa hạ quan sẽ dâng biểu từ quan, về đây chung sống với bá phụ bá mẫu, với người bạn tri âm.

Chung lão không từ chối Bá Nha lạy Chung lão, lạy tạ từ bạn rồi quay xuống cho thuyền nhổ sào, trở về nước Tấn.

HẠT CÁT

Created by Hiep Nguyen, Sept. 2003