|
|
Truyện/Ký |
THĂM VÙNG NORTH WEST
|
NGUYỄN THỊ XUÂN-NGA - đăng lúc 12:21:27 AM, Apr 13, 2008
Mùa Hè năm nay nhân hội Xe Lửa tổ chức Convention (National, Model Railroad Association 2004 Convention ) tại Seattle, nên tôi cùng các con và các cháu quyết định bỏ ra hai tuần lễ để thăm vùng Washington State, Oregon và Canada. Vào khoảng 5 giờ rưỡi sáng ngày mồng 3 tháng 7, năm 2004, chiếc limosine màu đen bóng loáng đến đón chúng tôi tại nhà. Ông tài xế chất hành lý lên xe gồm 9 cái luggages, ngoài ra còn có 5,6 cái túi nhỏ. Thùng xe không chứa xuể nên ông ta phải mang 2 cái lớn nhất lên để ở mé trên, ghế cạnh chỗ ông ngồi. Gần một giờ sau thì tới phi-trường Philadelphia. Sau khi người và hành lý đã được kiểm soát, chúng tôi ra ghế ngồi ăn điểm tâm để chờ lên phi-cơ của hãng Continental Airlines. Hôm đó chuyến bay bị trễ, thay vì 8 giờ rưỡi máy bay cất cánh mà mãi hơn 9 giờ phi cơ mới rời phi đạo để trực chỉ về phía Las Vegas. Hôm đó thời tiết tốt, mây xanh bao phủ bầu trời. Khi còn cách Las Vegas chừng 15 phút bay thì trên trời hiện ra những cụm mây trắng muốt như bông nằm giữa bầu trời trong xanh và được ánh mặt trời chiếu vào tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Sau đó thì vùng sa mạc bắt đầu hiện ra với những núi đá đen hoặc vàng nằm trơ-trụi, không cây cối, thỉnh thoảng xen vào những cồn cát vàng. Từ trên phi-cơ nhìn xuống thì thấy rất nhiều con đường ngoằn ngoèo, chằng chịt. Ở giữa đám xa mạc phẳng lì là thành phố Las Vegas sầm uất với nhà cửa san sát nối tiếp nhau. Tại đây cũng có nhiềi cây cối, phần nhiều là những cây palm, lá trông giống như lá dừa nhưng thân cây thì khác hẳn, chung quanh có những cuống lá đan vào nhau trông rất đẹp. Loại cây này đắt lắm, có cây giá mấy ngàn đồng. Các mái nhà phần lớn được lợp ngói đỏ trông đẹp mắt, nhiều nhà có hồ bơi. Lúc 12 giờ trưa, giờ địa phương ( Miền Ðông Bắc là 3 giờ chiều.) máy bay đáp xuống phi trường Las Vegas. Vì phải chuyển máy bay nên chúng tôi vội vã rời phi cơ đi tới một cổng khác, đón máy bay khởi hành từ Las Vegas để tới Seattle. Sau khi yên vị được 15 phút thì phi cơ cất cánh và chỉ 2 giờ đồng hồ bay là đã thấy những ngọn núi trùng điệp cao vòi vọi cây cối xanh um của tiểu bang Washington Sate. Ðặc biệt tuy lúc đó đang mùa Hè mà trên đỉnh ngọn núi Mount Rainier hãy còn tuyết phủ trắng xóa. Rồi thành phố Seattle hiện ra với những cao ốc rất đẹp, nhiều nhà được xây ngay tại sườn núi. Ở trung tâm Seattle, trên con đường Harrison Street có căn nhà gọi là Space Needle cao 520 feet, gồm 2 từng, : Space Base là tiệm gift shop, nơi bán đồ kỷ-niệm, phần trên cùng là nhà hàng ăn, và chỗ cho du khách lên ngắm cảnh. Năm 2001, chúng tôi đi ăn cưới Lan , cháu ruột của nhà tôi tại Seattle có lên xem. Lấy vé mỗi người 36 đồng rồi vào thang máy người hướng dẫn bấm nút, trong vòng 41 giây đồng hồ, sẽ lên tới đỉnh. Nhà hàng này chung quanh được bao bọc bởi kính trong suốt nên nhìn ra ngoài rất rõ. Ngồi ăn trưa và được ngắm cảnh toàn vùng và có thể chụp hình được nữa vì sàn nhà liên tục quay vòng vòng chung quanh. Nếu ai không muốn ăn thì chỉ phải trả mười mấy đồng rồi được đưa lên , đứng ở khu vực phía ngoài nhà ăn. Lúc 2 giờ chiều, máy bay giảm tốc độ rồi từ từ hạ xuống phi trường Sea Tac. Sau khi lấy hành lý thì chúng tôi nhờ một nhân viên của phi trường chất tất cả đồ đạc lên một cái xe rồi anh ta đẩy thẳng tới hãng Avis để chúng tôi thuê xe lái về khách sạn. Chúng tôi cư ngụ tại Radisson Hotel, chỉ cách phi trường 15 phút lái xe. Ngay buổi chiều hôm đó, chúng tôi tới khách sạn Double Tree là chỗ Convention của Railroad để lấy những tài liệu và tickets đã đặt mua từ trước.
Hôm sau có tour đi xe lửa sang Vencouver, Canada. Sáu giờ sáng nhằm ngày July 4, chúng tôi tới tập trung tại khách sạn Double Tree. Tại đây nhân viên của ban tổ chức kiểm soát từng người rồi phát bảng tên, được lồng trong miếng plastic và có dây đeo bằng vải màu đỏ để quàng qua cổ. Trong suốt thời gian một tuần lễ có Convention, hễ tới chỗ nào là cũng phải đeo bảng tên. Lúc 7 giờ, khoảng sáu chục người được hướng dẫn ra xe bus và được chở thẳng tới Seattle's King Treet Station Sun và lên Amtrack Train. Tám giờ sáng tầu khởi hành với tốc độ khá nhanh nhưng ngồi trên tầu thấy cũng êm. Chúng tôi chọn toa First Class, có máy lạnh nên thoải mái vì hôm đó trời nắng chang chang, rất nóng, tới 80 độ. Trên mỗi toa tầu đều có chiếu video để chỉ cho hành khách biết là sắp tới ga nào và lúc đó là mấy giờ. Xe lửa chạy dọc theo eo biển, qua các tỉnh Edmonds, Everest, Mount Vernon và Bellingham thuộc tiểu bang Washington State. Cứ mỗi khi tới một ga là tầu lại hụ còi oa, oa inh-ỏi rồi dừng lại để cho hành khách xuống và đón khách lên tầu. Khi ấy có những khách bộ hành dừng lại bên cạnh đường tầu rồi đưa tay vẫy chúng tôi. Phía bên trái của đường tầu là biển rộng mênh mông , kế bên là những dẫy núi. Ở ven biển có chỗ nổi lên bờ đá, vài người ra đó đứng câu cá, có người đi bộ dọc theo bãi cát. Nhìn về phía xa xa thì thấy một chiếc tầu của Hải quân đang đậu tại đó. Phía bên phải là nhà cửa xây liền nhau, kiểu nhà cũng đẹp nhưng không giống những nhà ở Hoa-Kỳ. Trên đường đi cũng gặp một công viên, dân chúng ra đấy ngồi chơi rất đông. Trên xe lửa có chỗ bán thức ăn, chúng tôi mua bánh mì và nước ngọt để ăn trưa. Trên tầu mọi người đều được phát cho cái đơn để điền vào và nộp cho nhân viên an-ninh. Khoảng gần 12 giờ thì xe lửa dừng lại tại Canadian National Depot ở downtown Vancouver. Sau khi xuống tầu mọi người phải đứng xếp hàng để được xét giấy tờ và khám hành trang tại trạm kiểm soát của Canada. Khi đến phiên tôi bà kiểm soát viên hỏi tôi sẽ ở Canada mấy ngày, tôi trả lời là tôi đi theo tour và buổi chiều sẽ trở lại Mỹ, thấy vậy, bà ta chẳng kiểm soát xách tay mà cho tôi đi qua luôn. Tại đây chúng tôi được chia thành từng nhóm nhỏ chừng mười 15 người rồi được những chiếc xe van chở tới các tư nhân có lay out xe lửa. Trong một căn phòng họ thiết lập những thành phố với nhà cửa, hãng, xưởng, xe hơi xe bus, nhiều đường xe lửa và những đoàn tầu xinh xinh , có nhiều toa, có toa chở hành khách, toa chở than, toa chở gỗ chạy luồn lỏi qua đường hầm, qua những chiếc cầu.nhỏ bé, qua vùng đồi núi ... trông rất vui mắt. Khi chúng tôi đi qua đường King high way thì thấy nhiều tiệm buôn bán, nhà hàng đề bảng chữ Việt. Thường thường các nhà ở Vancouver ở trước cửa đều trồng hoa đủ màu trông rất đẹp. Có nơi trong vườn trồng rất nhiều hoa Hydrangea đủ màu: vàng, tím, xanh lơ, trắng, đỏ, hồng, lâu năm nên cây lớn lắm. Các nhà có lay out xe lửa tiếp đãi niềm nở, có nơi còn mời chúng tôi ăn bánh ngọt, uống nước juice. Sau khi xem 4 nhà thì chúng tôi trở về ga xe lửa để chuẩn bị về lại Seattle, lúc đó vào khoảng hơn 5 giờ chiều. Lượt trở về này, chúng tôi phải qua hai trạm kiểm soát, một của Mỹ, một của Canada . Cỡ 6 giờ rưỡi thì Amtrack rời Vancouver để về lại Seattle. Chúng tôi lại mua thức ăn tối ở trên tầu. Tại đây họ cũng bán salade và những thức ăn nóng như pizza, bánh mì cặp gà, cặp ham... Khi tầu hỏa chạy đến khu vực của Mỹ thì có nhân viên an ninh lên kiểm soát passport từng người và mỗi người đều phải nộp một tờ đơn khai rõ tên tuổi, quốc tịch, điạ chỉ và ngày tới Canada.. Chương trình dự trù là sẽ về đến Seattle lúc nửa đêm nhưng tầu đang chạy ngon trớn thì tự nhiên phải ngừng lại vì bị trục trặc về điện, tầu phải đỗ lại để sửa, gần một tiếng đồng hồ sau mới tiếp tục chạy. Lúc này nền trời đã tối sẫm, điểm thêm mặt trăng và những vì sao lấp-lánh. Khoảng hơn 11 giờ bỗng nghe thấy tiếng nổ lộp-bộp, lộp bộp như tiếng nổ của bắp rang, nhìn ra ngoài trời thì thấy sáng rực đó là pháo bông mừng ngày Ðộc-Lập của Hoa-Kỳ đang được bắn lên từ các tỉnh lân cận. Cứ thế dọc theo đường đi hành khách được nhìn những chiếc pháo bông được bắn vút lên trời rồi tỏa rộng ra thành hình những bông hoa đủ màu sắc thật ngoạn mục. Mãi 12 giờ 45 đêm hôm đó xe lửa mới tới Seattle, chúng tôi lại lên xe bus và khi về tới Double Tree đã một giờ sáng.
Ngày hôm sau là thứ Hai nhân các cháu con anh chị Riêu là anh ruột của nhà tôi, đều được nghỉ lễ nên chúng tôi hẹn Trường, Trầm-Hương, bé An cùng Diễm-Lan và Richard, họp nhau tại nhà Hải và Ðài, tại đó có anh chị Riêu ở cùng để giúp trông nom bé Ánh vừa đúng 4 tuổi. Trưa đó chúng tôi được ăn phở gà, chả giò, và xôi chè. Sau khi đã no-nê, tất cả kéo nhau ra sau vườn để chụp hình kỷ-niệm. Nhà Hải có một khu vườn trồng hoa rất đẹp do bàn tay khéo léo của chị Riêu. Chị rất thích hoa nên đã mua đủ loại hoa đầy màu sắc trồng xen kẽ nhau trông rất vui mắt. Buổi chiều hôm đó Hải và Ðài lại mời tất cả đi ăn ở tiệm Tầu gần đấy. Cả người lớn và trẻ con tổng cộng là 13 người cộng thêm baby trong bụng Ðài nữa là 14. Ai cũng phải buồn cười vì Nicholas chỉ đòi ăn cơm trắng với tầu vị yểu chứ không biết ăn món rau muống sào thịt bò, đậu xào tỏi, gà chiên trộn nước sốt.. Ngày thứ Ba, mồng 6 Tháng 7, các con và các cháu đi xem lay out xe lửa nhưng tôi không muốn đi nên cháu Lan sau khi làm đêm ở bưu điện về đã ghé lại khách sạn đón tôi đến nhà cháu chơi. Nhà Lan và Richard ở vùng ngoại ô, nhìn ra một khu rừng, đất rất rộng, có cây mận lớn, trên cành cây chĩu-chịt hàng ngàn trái, nặng quá cành oằn xuống, gần chạm mặt đất. Cây lê cũng rất to và sai trái, Lan cho biết là chẳng ăn hết nên quả rụng xuống gốc, làm món ăn cho mấy con hươu đang trú ngụ tại mé rừng cạnh nhà. Buổi trưa hôm đó tôi lại tới ăn trưa với anh chị Riêu. Tôi được chị Riêu cho thưởng-thức món tôm rang, canh bầu và rau cải luộc chấm trứng rất ngon miệng.
Hôm thứ Tư, 7 Tháng 7 chúng tôi đi tour thăm vùng núi Mount Rainier của tiểu bang Washington State là ngọn núi lửa còn đang hoạt động, cao 14,410 feet, chạy dài 98 feet. Ngọn núi phẳng, quanh năm có tuyết ; Tuyết và đá bao phủ tới 45 square feet. Sáu giờ rưỡi sáng hôm ấy, chúng tôi tới tập trung tại khách sạn Double Tree... Sau khi đã kiểm soát tất cả mọi người, khoảng 8 giờ sáng chúng tôi gồm gần hai trăm người được hướng dẫn lên sáu chiếc xe Bus cùng với mấy chục người trong ban tổ-chức. Từ khách sạn xe bus chạy chừng nửa mile là rẽ ra xa lộ 5 và 6 đường rộng thênh thang nên xe có thể phóng tới 60 miles một giờ. Sau đó thì xe bus lấy exit 27 để sang một con đường khác nhỏ hẹp, đường đi quanh-co, lên dốc xuống đồi nên chỉ còn được phép chạy 35 miles một giờ mà thôi. Rồi núi đồi trùng trùng, điệp điệp hiện ra với những cây thông già, cành lá um-tùm, thỉnh-thoảng có xen lẫn những cây maple. Con đường đi ngoằn-ngoèo, có chỗ một bên là vách núi dựng đứng, một bên là vực sâu, ở dưới có suối nho nhỏ, chạy luồn lỏi rất xa. Cạnh chân núi cũng có một cái hồ lớn, ở giữa hồ nổi lên cái cồn nhỏ, cây cối xanh tốt trông rất nên thơ. Xe cũng chạy qua cầu của sông Water River. Lúc 10 giờ sáng thì xe bus tới chân núi Mount Rainier, và đỗ lại tại một khoảng đất trống là ga xe lửa ở cạnh một xưởng gỗ có tên là Hampton. Mọi người xuống xe bus, sau khi chụp hình quang cảnh núi bên cạnh chiếc xe lửa, chừng 15 phút sau còi tầu hụ để dục mọi người lên xe lửa. Tầu chạy quanh núi. Cây cối ở đây to, cao và rậm rạp vì đã sống cả 40 hoặc 50 năm rồi. Thỉnh thoảng lại gặp một cây cổ thụ, thân to đến mấy người ôm, rễ to mọc trồi lên khỏi mặt đất, bò ngoằn ngoèo. Ở Washington State thường hay mưa nhiều nên khí hậu ẩm ướt, bởi vậy nên quanh thân cây đều có rêu xanh bám đầy trông rất đặc biệt. Xen giữa những cây cao là những bông hoa dại đầy màu sắc. Buổi trưa hôm đó họ phát cho mỗi người một ổ bánh mì thịt nguội to tướng kèm theo một chai nước suối và một cái cookie cũng to. Chuyến đi này kéo dài gần 10 giờ đồng hồ, giá vé là bẩ chục đồng mỗi người. Ở Washington State cũng còn ngọn núi Mount Adam cao 12,276 feet, chạy dài 54 feet.
Nhân dịp này Lĩnh, người bạn từ hồi còn ở Tiểu học Lệ-Hải , Hải-Phòng và cùng dạy tại trường Trung-học Quốc-Gia Nghĩa Tử Sài Gòn, cũng sang Seattle ăn cưới, may mắn hôm thứ Năm mồng 8 tháng 7, cả hai chúng tôi đều không có chương trình gì đặc biệt, nên đã hẹn nhau đi chơi chung. Sáng hôm đó các con chở tôi đến khách sạn Western là nơi mà Lĩnh và anh Toàn ( chồng của Lĩnh ) đang cư ngụ, chỉ cách Radisson một con đường. Ba người chúng tôi ra đón xe bus ở góc đường để đến Downtown Seattle. Vé xe bus thật rẻ chỉ phải trả 25 cents mỗi người. Chừng mười lăm phút sau là đã tới nơi. Chúng tôi xuống xe bus rồi đi bộ một quãng ngắn là tới Pike Place Market, khu buôn bán rất cổ, có cả trăm tiệm nho-nhỏ ở rải ra trong ba từng lầu. Tại đây có tiệm bán cá to, những con salmon thật tươi còn đang quẫy trong những bể đựng. Ai mua con nào thì chỉ, một người bán đứng ngay tại đấy bắt lấy rồi tung con cá cho người ở trong quầy hàng để gói cho khách. Có tiệm bán trái cây như cam, nho, Cherries màu vàng nhọt lịm mà chỉ có .99/lb. Rất nhiều tiệm bán đồ thủ-công.. Sau khi tham quan một vòng quanh chợ, chúng tôi tới trạm bán vé đi Cruise The Lock Harborr Tour. Mỗi vé 25 đồng. Anh Toàn nhất định trả cho tôi. Ở bến các thuyền đánh cá, tầu chở khách du-lịch và tầu chở hàng đậu san sát nhau. Tại đây có những cần trục rất lớn, hình giống như cái ghế dựa để câu hàng lên bờ và chuyển hàng xuống tầu. Tầu khởi hành tại Waterfront, cuộc hành trình kéo dài 2 giờ rưỡi đồng hồ vừa đi vừa về. Chúng tôi ngồi trên tầu thoải mãi vừa ngắm cảnh vừa ăn trưa và chụp hình. Tầu chạy từ Elliott Bay tới Chittenden Locks, từ vùng nước biển mặn sang hồ nước ngọt. Tại đây có cái đập lớn để ngăn cách, hai vùng nước chêng nhau tới 17 feet Khi tầu chạy tới chỗ đập chắn thì phải ngừng lại để chờ họ mở cửa đập. Khoảng 15 phút sau, khi đập vừa được mở ra thì khối nước khổng lồ từ chỗ cao đổ ập sang vùng nước thấp làm cho mực nước hai bên ngang nhau lúc đó tầu mới chạy qua được. Nghe nói mỗi khi cửa đập được mở thì một số cá salmon từ vùng nước mặn theo nước sang vùng nước ngọt, đẻ rồi chết tại đó. Trong khi đi trên tầu nhìn vùng nước phẳng lặng, hai bên bờ nhà cửa xây cất trên sườn núi trông rất đẹp. Lĩnh luôn mồm khen: “
Phong cảnh ở Seattle đẹp quá! Ðẹp quá ! Ðẹp hơn vùng East Coast của chúng mình nhiều. Khi trời đã nhạt nắng, tầu quay lại bến, chúng tôi lại đón xe bus trở về khách sạn của Lĩnh. Tại đây mỗi người chúng tôi order một cái sandwich để ăn tối. Lĩnh lại nhất định không cho tôi trả tiền. Sau đó chúng tôi mới chia tay. Thật là cơ duyên may đã đưa đẩy chúng tôi ở tại hai tiểu bang rất xa nhau New Jersey và Illinois cùng đến Seattle nên mới được trọn một ngày đi chơi chung với nhau. Cuộc đi chơi này rất vui, đã để lại trong tôi một kỷ-niệm vô cùng đẹp-đẽ khó quên.
Chiều mồng 9 tháng 7, con gái và con rể tôi có Dinner Cruise nên tôi và hai cháu tới chơi ở nhà Trường và Trầm-Hương. Bữa cơm chiều Trầm Hương hấp một đĩa to tôm bạc để ăn chơi, sau đó ăn cơm với canh và rau sào đồ biển rồi tráng miệng trái cây và uống trà Móc Câu, một loại trà Tầu có vị hơi chan chát khá ngon và đặc biệt là tôi uống tới mấy tách mà tối đó vẫn không mất ngủ. Buổi tối Trường chở tôi và Jessica Hoa về khách sạn, còn Nicholas Quang thì ở lại để ngủ với bé An.
Chiều hôm sau là ngày mồng 10 tháng Bẩy, Trường và Trầm Hương lại mời chúng tôi ăn. Món thịt bò Trường nướng rất khéo, còn món soup do Trầm-Hương nấu cũng ngon. Mấy ngày tại Seattle chúng tôi đã được anh chị Riêu cùng các cháu tiếp đãi thật ân cần , nồng hậu. Ngày Chủ nhật 11 tháng 7, chúng tôi đi thăm Victoria của Canada bằng chiếc tầu Victoria Clipper Cruise. Giá vé 85 đồng mỗi người. Trước khi xuống tầu tất cả mọi người đều phải qua trạm kiểm soát của Mỹ. Trên tầu có những ghế ngồi rộng rãi và có cả bàn nữa nên ngồi ăn uống rất tiện. Trên tầu có chỗ bán thức ăn, mỗi phần ăn được đựng trong những hộp sạch sẽ và ngon. Cà phê và nước trà thì được uống free. Khi vừa lên tầu là chúng tôi được phát mỗi người một cái đơn để điền tên tuổi, địa chỉ, ngày thăm viếng Victoria rồi nộp cho an ninh. Hai tiếng đồng hồ lênh đênh trên mặt nước, được nhìn thấy những con cá heo rất to nhẩy vọt khỏi mặt nước. Tầu chạy rất êm nhưng khi gặp một cái tầu khác đi ngược chiều thì tạo nên những làn sóng lớn làm tầu lắc mạnh trồi lên sụt xuống, mấy người ngồi trên tầu lại kêu lên: “ U! U!, có người nhắm nghiền mắt lại, có người gục đầu xuống bàn. Trên tầu họ quảng cáo có một tour bằng xe bus giá 42 đồng, đi quanh thành phố Victoria và tới vườn hoa nổi tiếng The Butchart Garden, vì Jessica còn nhỏ, các con tôi không muốn đi tour này mà chỉ muốn đẩy xe cho bé đi bộ mấy con đường gần bến tầu mà thôi, nên tôi lấy vé The Clipper Combo tour đi một mình. Khoảng 10 giờ sáng thì tầu cặp bến ở ngay Downtown Victoria. Victoria nằm ngay cạnh biên giới của Canada , ở phía Nam của Vancouver Island, thành phố có 150 năm lịch sử. Ngay tại bến tầu có khách sạn The Empress rất đồ sộ, xây cất như một cái lâu đài, mặt tiền có những cây leo màu xanh, màu đỏ thẫm mọc phủ kín cả tường càng làm tăng vẻ cổ kính và đẹp-đẽ. Khi lên khỏi tầu mọi người phải xếp hàng để qua trạm kiểm soát của Canada. Sau đó tôi tới ngay xe bus Victoria Clipper có hai tầng cao lênh-khênh đang đậu ngay gần đó.
Tôi chọn một chỗ ở quãng giữa xe ngay tại tầng dưới. Khi xe bus bắt đầu chạy tôi mới thấy là mình dại vì ngồi ở tầng này phải hít khói xe khét-lẹt và phải nghe tiếng động cơ xe chạy ồn ào nên không nghe được rõ những lời giới thiệu thành phố của người lái xe. Xe bus khởi hành từ bến tầu lúc 11 giờ sáng rồi đi qua đường Gouvernement, tại đây có nhiều tiệm buôn bán, rồi qua Blanshard Street, Fort Street, nơi bán toàn đồ antique( đồ cổ), View Street, Yates Street, Johnson Street, Pandora Ave., rồi qua Chinatown, phố Tầu có cái cổng đẹp được xây từ năm 1981, Douglas Street phía trái nhìn thấy núi. Ở Downtown có một con đường không cho xe cộ đi , họ kê những cái bàn trên đường rồi bầy bán quần áo, đồ thủ công, rất nhiều bàn bán đồ trang sức. . Sau đó xe bus rẽ ra high way 17 South. Ở bên đường có nhiều cây lớn cành xà xuống thấp mà xe bus thì cao nên những cành đập vào nóc xe kêu phành-phạch, tôi chắc rằng sơn ở trên đó sẽ bị tróc hết. Cuối cùng xe rẽ vào con đường Benenuto rồi đậu lại tại bến dành cho xe bus. Tất cả xuống xe, ông tài xế đưa cho mỗi người một cái vé để vào cửa và ông ta hẹn là phải có mặt lúc 1 giờ rưỡi chiều để trở về. Lúc đó là 12 giờ trưa, như vậy là có một tiếng rưỡi để thăm vườn. Qua cổng độ mấy chục thước là thấy ngay Visitor Centre, , bên cạnh là Coffee Shop, rồi Show Greenhouse, Blue Poppy Restaurant và một xe bán hot dog đỗ ở góc đường tôi nghĩ rằng nếu vào restaurant mà ăn thì sẽ mất thì giờ, lúc ấy đã thấy đói bụng nên ghé mua một cái bánh mì hot dog giá ba đồng rưỡi Canada. Ðể tranh thủ thời gian tôi vừa đi vừa ăn. Vườn Butchart ở cách Victoria 21 cây số, nằm trong một khu đất rộng tới 130 mẫu. Vườn được bắt đầu bởi công trình của ông bà Robert Butchart. Lúc đầu chỉ cốt để tiêu khiển, bà Butchart làm một khu vườn hoa chung quanh nhà, sau đó mới nới rộng ra và ngày nay khu vực vườn hoa đã chiếm tới hơn 55 mẫu. Suốt từ cổng vào, các lối đi đều được lát bằng những viên gạch si-măng trắng. Hai bên đường đi đều có trồng hoa và những cột để treo các giỏ hoa cũng làm bằng cement trông giống như gỗ. Sunken Garden được trải rộng vùng đất thấp 15 feet so với mặt đường, trong vườn nhiều cây cao rậm rạp, nhiều bụi cây và nhiều hoa đầy màu sắc tươi vui. Năm 1964 để Kỷ niệm 60 năm The Butchart Garden, ông Lan Ross, là cháu( grandson) của ông bà Butchart, thiết lập Ross Fountain, nước phun cao tới bẩy chục feet, ban đêm có đèn chiếu vào , tạo nên nhiều màu sắc rất đẹp. Tiếp theo là một khoảng đất rộng trồng cỏ xanh mướt, đó là chỗ để hòa nhạc. Ðối diện là vườn hồng rộng mênh mông với mùi hoa thơm ngào-ngạt. Lối đi vào vườn có những cổng hình vòng cung được quấn quanh bởi những cây hồng leo màu hồng, màu trắng, màu đỏ. Trong vườn không biết bao nhiêu là loại hồng: Hồng vàng, hồng trắng, hồng đỏ, hồng xanh, hồng vàng, có bông to bằng cái bát ăn cơm, có bông xinh xinh, vào khoảng tháng 7, tháng 8 là lúc hoa hồng nở rực rỡ nhất. Ngay cạnh vườn hồng có Dinning Room Restaurant. Kế bên là Italian Garden, trước năm 1926 nơi này là sân chơi tennis của gia đình Butcharts, trong vườn có tượng đồng đỏ, có máy nước và tượng một cô gái đang cầm con cá. Star Pond, hình ngôi sao 8 cánh, giữa bồn hoa có máy nước phun hình con cóc. Một cái cổng gỗ màu đỏ dẫn đến Japanese Garden. Vườn này được thành lập năm 1906 bởi bà Butchert với sự phụ giúp của một người chuyên viên vễ landscape của Nhật tên là Isaburo Kishida. Trong vườn có cái ao nhỏ thả cá, một chiếc cầu nhỏ màu đỏ chót bắc ngang qua. Những con cá màu vàng, màu đen, vàng có đốm trắng hoặc đen, rất to đang lúc nhúc bơi lượn. Trong vườn trồng nhiều cây rậm rạp có cây anh đào và cây maple lá màu đỏ huyết dụ thật đẹp. Ở Butchart Garden, suốt dọc lối đi và con đường dẫn vào các khu vườn, hai bên đều trồng nhiều thứ hoa hiếm quí đã được sưu tầm trên khắp thế giới .chẳng hạn như cây hoa Monshood giống như hoa lily màu tím mực, hoa Achillea Yarrow gồm nhiều bông nhỏ mọc liền nhau màu vàng tươi mọci xòe tròn như đĩa xôi, hoa Allium, cánh hoa li ti hình tròn xoay màu tím hồng, hoa Anchusa từng bông xinh xinh có năm cánh màu xanh lơ, hoa Amaranthus Caudatus mọc thành từng chùm dài tới mấy feet, màu đỏ trông rất đẹp, hoa Columbine Aquilegia có năm cánh màu vàng tươi đài hoa là năm cánh lá màu hồng đậm, hoa Begonia có nhiều cánh xếp chồng lên nhau mé trong cánh màu hồng phía ngoài màu trắng viền hồng , to bằng cái bát canh, hoa English Daisy hình giống như những chiếc nút áo nhỏ, màu hồng và trắng, hoa Angel's Trumpets màu vàng nghệ, rất to mọc rủ xuống trông như những cái kèn, hoa Marigold ở Phi Châu, màu vàng nghệ ,tỏa rộng có tới mấy trăm cánh, hoa Camellia, to, cánh dầy, màu hồng, đài hoa màu xanh, hoa Feathered Cockscomb hình tháp rất lớn, màu đỏ chót và vàng tươi, mềm mại như những cái lông chim được ghép lại với nhau, hoa Fuchsia , màu đỏ rủ xuống từng chùm, nhị hoa thò dài cả mấy phân , nhụy hoa trắng nõn, hoa Tibetan Blue Poppy có sáu cánh màu xanh lơ nhị hoa màu vàng nghệ trông rất nổi. Còn nhiều loại hoa khác cũng rất đẹp không thể tả hết được. Hàng năm Butchart Garden đã thu-hút hơn một triệu người tới viếng thăm. Tuy hãy còn say mê ngắm hoa nhưng đã gần tới giờ hẹn nên tôi vào Gift Shop vơ vội một cái áo jacket có thêu hình con chim, một cành hoa và chữ Victoria Canada để làm kỷ-niệm, giá 32 đồng Canada, vào khoảng 24 Mỹ kim. Khi ra tới xe bus thấy còn sớm mấy phút nên tôi đã nhờ ông tài xế chụp hộ một tấm ảnh đứng ở cổng. Chuyến trở về này tôi leo lên ngồi ở từng trên nên rất dễ chịu. Trên đường về xe bus lại đi lối khác nên nhìn thấy hồ và núi rõ hơn. Trên núi có nhiều nhà cửa. Xe cũng chạy qua khu Mayfaire Shopping Center, qua ngôi nhà thờ cổ , cây thánh giá vàng, được xây cất từ năm 1892, qua đường Oak Bay cấm bán rượu và gasoline. Khi xe bus về tới Victoria mới có 3 giờ chiều mà mãi 6 giờ mới phải có mặt tại trạm kiểm soát nên tôi lại đi bộ qua mấy phố rồi sang phố Tầu, mua một chùm nhãn, vào một tiệm ăn, gọi một đĩa cơm rang và một chai nước cam. Ăn xong bèn đem nhãn ra tráng miệng, phải ăn hết vì không được phép mang về Mỹ. Nhãn ở đấy rẻ quá chỉ có 99 xu tiền Canada một pound.
Sáng sớm ngày 12 tháng 7, chúng tôi dùng xe hơi để sang thăm tiểu bang Oregon vì Seattle chỉ cách Oragon hơn hai giờ lái xe. Từ khách sạn, chúng tôi lái tới xa lộ 5 South, nhìn về phía trái, núi Mount Rainier bị bao phủ bởi nhừng cụm mây trắng nên chỉ thấy mờ mờ. Khi tới xa lộ 84 East thì thấy núi Kalama, một dẫy núi dài và bằng phẳng, chạy dọc theo là con sông kalama khá rộng, nước màu xanh rêu, sóng lăn-tăn. Rồi gặp con sông Columbia River dài 1,200 miles, chạy dọc theo biên giới của hai tiểu bang Oregon và Washington State. Lòng sông rất rộng, có một cây cầu dài bắc qua , kiến trúc khá đẹp, cầu sơn màu xám. Sông này chảy xuyên qua núi nên được gọi là Columbia River Gorge. Sông Hood River của tiểu bang Oregon khá dài nhưng hẹp hơn sông Columbia, chảy vào Columbia River. Con đường dẫn đến núi Mount Laural lên dốc xuống đèo, rất sóc, có chỗ một bên là núi cao một bên là vực thẳm, quanh co nên khi tới núi thì bé Jessica ói ra đầy cả quần áo, phải thay ngay ở trong xe. Ðứng trên núi Laural có thể nhìn được năm ngọn núi là ngọn Mount Adam cao 12,276 feet, chạy dài 46 miles, ngọn Mount Rainier , cao tới 14,410 feet, chạy dài 98 miles. Hai núi này thuộc tiểu bang Washington State. Ngoài ra cũng còn nhìn thấy ba núi của tiểu bang Oragon là ngọn Mount Saint Helens cao 8,365 feet, chạy dài 46 miles, là ngọn núi lửa vẫn đang hoạt động. Vào 8 giờ 32 phút sáng ngày 18 tháng 5 năm 1980, núi lửa này đã nổ, tạo nên luồng gió mạnh thổi về tận South Western Washington. Sức mạnh của núi lửa làm bằng địa khu rừng và sông, hồ bị lấp bởi đất bùn và tàn lửa, có 70 người bị thiệt mạng. Hồi tháng 9, năm 2004 chính ngọn núi này cũng lại phun khói xám lên trời, tưởng sẽ phụt lửa nữa nhưng may sau đó thì êm luôn. Có người hiếu-kỳ từ Seattle và các vùng lân cận tới đó xem, phải trả 5 đồng mỗi người để được vào khu-vực quan-sát. Núi Mount Jefferson cao 10,497 feet, chạy dài tới 62 feet. Sau đó chúng tôi đi thăm Vista House, căn nhà được xây ở trên ngọn đồi cao 600 feet để tưởng niệm những người đầu tiên khai phá Oragon. Con đường dẫn lên có nhiều bực hai bên có tường đá rất đẹp; căn nhà cũng được xây toàn bằng đá. Ðứng ở trên đó du khách có thể nhìn được tứ phía, nhìn xuống thì thấy sông Columbia River, nhìn lên sẽ thấy Rooster Rock và nhìn qua được những núi ở Washington State. Rời Vista House chúng tôi đi về phía thác Multnomuh. Thác này cao 620 feet, đổ từ núi Larch Mountain xuống, nước chảy quanh năm và được xếp vào hàng thứ ba trong toàn quốc sau hai thác ở California là thác Ribbon, cao 1,612 feet và thác Upper Yosemite, cao 1,430 feet. Multnomuh Falls nước chảy rất mạnh nghe rào rào, tuôn bọt trắng xóa, chảy thành ba lớp trông rất đẹp. Chỗ quãng giữa của thác, ngay ở phía đằng trước họ xây một cái cầu bằng xi-măng chắc chăn , nối hai bên sườn núi, có lối đi dẫn từ dưới đất lên đến cầu nên du khách có thể leo lên đó để ngắm thác và chụp hình. Chúng tôi chụp đứng ở dưới và đứng trên cầu, ngoài ra còn thuê thợ ảnh chụp cho cả gia đình nữa. Ngay dưới chân thác có một nhà hàng ăn khá rộng rãi, chung quanh tường toàn bằng kính nên khi ngồi ăn cũng được ngắm cảnh núi và thác. Khi chúng tôi đang ngồi trong nhà hàng chờ họ làm thức ăn đã thấy thợ chụp hình mang hình tới Sau đó chúng tôi đi trở lại phía sông Hood River và check in khách sạn Best Western Hood River. Khách sạn này được xây ngay bên bờ sông nên ngồi ở trong phòng cũng được ngắm cảnh sông và núi. Mở cửa sliding door ra ngoài là bờ sông, có đường cho người đi bộ. Oragon có nhiều nhà được xây trên sườn núi trông rất đẹp
Sáng hôm sau 13 tháng 7, chúng tôi trả khách sạn và đi xem vùng núi Mount Hood bằng xe lửa Mount Hood Railroad. Tầu khởi hành tại Hood River Depot lúc 10 giờ sáng, sau khi chạy được 3 miles thì bắt đầu leo núi. Tầu chạy được 2 miles thì thấy sông Hood River, nước chẩy êm đềm, khi gặp giòng suối có thác đổ vào thì nước chảy xiết. Lòng suối nông, nước trong suốt nên có thể nhìn thấy rõ những hòn đá màu xám, màu nâu ở lòng suối. Tầu chạy tới Powerdale ở độ cao 113 feet, tại đây có nhà máy sản suất điện nhờ dòng sông Hood River. Rồi tầu chạy qua vùng Switchback ở độ cao 307 mile, hai bên đường toàn là những cây thông cao vòi-vọi, gặp highway 35, nằm ở phía trên của Switchback. Từ cầu highway bridge, hành khách được thấy núi Mount Hood ở phía nam và ngọn núi Mount Adam từ phía bắc. Chạy 4 miles nữa thì tới Sears, nơi đây có nhiều trại trồng táo. Năm 1906 lần đầu tiên trại chủ đã xuất cảng 625 thùng sang Siberia. Tầu chạy thêm 5 miles 6 thì tới Pine Grove ở độ cao 634 feet. Tại đây có ga xe lửa, có nghĩa trang, nhà thờ Tin lành ( Methodist Church) và trường học. Chạy 6 mile 8 nữa thì tới Mohr có độ cao 608 feet, tại đây có the Mohr packing house là tên của một gia đình năm 1880 xuống sinh sống ở vùng này. Năm 1885 Thomas R. Coon, một nhà giáo đã trồng dâu ( strawberries) rất thành công. Cây táo được trồng nhiều nhất từ năm 1910 ở đấy, nhưng hồi tháng 12 năm 1919, nhiệt độ xuống tới âm 20 độ làm cả ngàn cây táo bị chết mà cây lê vẫn còn sống nên từ đó họ chuyển sang trồng toàn lê mà thôi. Tại đây có xưởng đóng trái cây vào những thùng gỗ rồi được xe lửa chở đi các nơi. Vì leo cao quá nên xe lửa phải dùng tới hai đầu máy để một cái kéo, một cái đẩy. Khi qua xưởng đóng thùng nghe thấy tiếng đinh đóng vào gỗ canh cách. Tại đây có cả một khu rừng toàn là lê. Cây nào cũng sai chĩu-chịt những trái lê xanh. Bò thêm 7 miles rưỡi nữa thì tới tỉnh Lentz ở độ cao 667 feet. Ở đây có Duckwall-Pooley Fruit Co. và hãng Diamond Fruit Growers, Inc.. Hãng Diamond chuyên chở nhiều lê nhất ở vùng Bắc Hoa-Kỳ, được thành lập năm 1913 bởi sự sát nhập của hai hãng The Hood River Apple Grower Union và Davidson Fruit Company. Ði thêm 8 miles rưỡi nữa thì tới Odell ở độ cao 712 feet. Tỉnh này mang tên của William S. Odell, người đến từ California năm 1861. Tầu cứ leo cao mãi, rồi tới Duke 's Valley ở độ cao 723 feet, Summit ở độ cao 868 feet, tới Bloucher Spur ở độ cao 848 feet, Holsten ở độ cao 907 feet tại đấy có trại bò cho sữa tươi, có hãng làm cheese. Winans ở độ cao 884 feet. Năm 1906 vùng này được coi là Winan City. The Winans family đến đó từ năm 1887 xây khách sạn ba từng lầu cho khách du-lịch ở tại đó để câu cá, săn bắn hoặc picnic gần Punchbowl ở Hood River. Tầu leo 15 miles rưỡi nữa thì tới Dee ở độ cao 952 feet. Hãng gỗ The Oragon Lumber Company tìm chỗ để chứa những gỗ đã được xẻ ở chân đồi của Mount Hood và đã tìm thấy nơi này, họ lập đường xe lửa năm 1906 , xây một tỉnh mang tên Judge Thomas D. Dee of Ogden, Utah, là Vice-president của hãng. Tỉnh này có tiệm buôn, có Bưu-điện, phòng rượu bia và một nhà để đóng trái cây vào thùng. Những nhân viên của hãng Lumber, kể cả một số lớn những người Nhật làm cho Mount Hood Railroad đã mua đất đai tại đây để trồng táo, tiếp tục khai thác, trồng trọt bởi đời con đời cháu. Woodworth ở độ cao 1,484 feet. Vào mùa Xiân năm 1988 cư dân ở Upper Valley, phạt những bụi cây rồi trồng cỏ , là m những bàn picnic để cho hành khách xe lửa xử dụng. Xe lửa chạy thêm 21 miles nữa là tới Parkdale, ở độ cao 1,788 feet. Lúc đó là 11 giờ rưỡi tầu đỗ lại để hành khách được xuống xe lửa, đi bộ xem phong cảnh, vào ăn ở một tiệm nhỏ, ở đấy có tiệm kem( Ice cream) rất ngon. Tất cả các tỉnh ở quanh vùng núi đều có những đường tráng nhựa bằng phẳng khiến cho xe hơi đi lại được dễ dàng.
Ðược một tiếng đồng hồ đi bộ loanh quanh để thư dãn gân cốt, lúc 12 giờ rưỡi tầu hỏa hụ ba hồi còi còi, mọi người lục-tục leo lên tầu và trở về. Buổi chiều hôm đó, sau khi rời xe lửa, chúng tôi lại dùng highway 84 West, qua cầu Hood River phải trả 75 xu toll, rồi qua cầu Columbia River, phải trả một đồng, rồi rẽ vào highway 5 South, qua một cái cầu có hai từng, từng dưới dần xuống Downtown, từng trên dẫn tới West Salem Dallas Ocean Beach, rồi tới đường 101 dẫn tới biển Pacific Ocean. Chúng tôi cư ngụ tại khách sạn Best Western Land Mark. Ngồi trên bao lơn nhìn thấy biển và núi rất rõ. Sáng hôm 14 tháng 7 chúng tôi đi thăm vùng vịnh Thái Bình Dương, biển rộng mênh mông, sóng lăn tăn, êm đềm, thỉnh thoảng lại nổi lên những đảo nhỏ, cây cối mọc xanh tốt, chim chóc thường làm tổ ở trên đó. Có nhiều tảng đá nổi lên , có những lỗ hổng nhìn xuyên qua được trông rất đặc biệt, hiếm thấy. Chúng tôi đi thăm Cape Mearses Lighthouse, là ngôi đèn biển. Cape Mearses Lighthouse ở cách 10 miles về phía Tây của Tillamook , được xây ở độ cao tới 217 feet so với mặt biển. Lighthouse cao 38 feet. Ðó là lighthouse thấp nhất của Oragon. Chung quanh chân của lighthouse có lối đi rộng, họ để một cái ống nhòn tại đó, du khách bỏ 25 cent vào thì được nhìn cảnh biển rất rõ, nhất là được nhìn thấy hàng ngàn con chim đang lúc-nhúc ở trên đảo. Oragon Coast còn có nhiều lighthouse nữa như: Tillamook Lighthouse cao 62 feet, ở độ cao 133 feet; Yaquina Head Lighthouse là cái tháp cao 93 feet, ở độ cao 162 feet; Yaquina Bay Lighthous, cách mặt đất 42 feet và ở độ cao 161 feet so với mặt biển; Heceta Head Lighthouse tháp cao 56 feet, ở độ cao 205 feet; Umpqua River Lighthouse , cái tháp cao 65 feet, ở độ cao 165 feet; Cap Arago Lighthouse , đèn ở đỉnh cao 44 feet, ở độ cao 100 feet; Coquille River Lighthouse... Buổi chiều hôm đó chúng tôi dùng đường 5 North để trở lại Seattle, còn phải lái tới 129 miles nữa mới về tới khách sạn Radisson. Phải ghé ăn tối ở dọc đường nên khi về đến nơi đã hơn chín giờ tối. Ngày 15 tháng 7 đi xem sở thú (Woodland Park Zoo ). Từ khách sạn, dùng route 99 North, Gleen Lake hightway, North 46 Street rồi tới Fremont Avenue North, đến South Gate nằm ở giữa North 50th Street và Fremont Avenue North. Vừa vào tới cổng, nhìn phía phải thấy ngay một chuồng lợn, trong đó có mấy con lợn đang kêu ủn-ỉn, lông màu đen mượt ( loại lợn này có nhiều ở miền Bắc Việt NamÃ. Phía trước mặt có một chuồng gà với những con gà mái hoa mơ lông màu nâu khoang trắng rất đẹp. Trước cửa chuồng họ để một cái giỏ thật lớn trong đựng rất nhiều trứng và họ bảo du khách thử đoán xem bao nhiêu. Tôi đoán là 110 quả nhưng thực ra là 180 quả cơ. Sở thú này chia ra thành nhiều khu vực, mỗi nơi đều có cổng., hầu hết các con vật được thả ở ngoài trời chứ không bị nhốt trong nhà như những sở thú khác. Các con chim được tự do bay nhẩy và đậu trên những cây thực vì họ làm lưới thật cao giăng ở phía trên nên chúng không thể bay ra ngoài khuôn viên được. Có nhiều con chim lạ như Red Crown Crane to và cao, cổ cao trắng, con ngỗng trắng , chân và mỏ đen nhánh; vịt Red Head đầu đỏ, có vịt mỏ màu xanh lơ; chim đại bàng khổng lồ chưa từng thấy ở đâu. Cú cánh nâu, đầu và đuôi trắng, có con nâu bụng trắng, có con trắng xám, trắng nâu, có con nâu bụng vàng. Nai cũng rất to, con Emu đầu có bờm trông rất lạ. Những con Kangaroos màu nâu, chân và bụng màu vàng nghệ, có con dài từ 6 đến 7 feet rưỡi ; con lizard nặng từ 100 đến 150 pound. Một loại khỉ thật nhỏ ( Smallest Monkeys) chỉ to hơn nắm tay một chút; có khỉ lông đen láng, mồm màu xám, có con lông rất dài. Những con Wild Dog, giống chó sói, lông màu nâu vàng, có khoang trắng. Ở đây cũng có nhiều loại gấu: Malayan Sun Bear thon, ngực màu vàng cam; có con gấu lông sù. Những con hổ to lông màu vàng sậm, vằn đen. Voi Asia lông màu nâu vàng, Voi Africa lông màu xám, tai to như cái quạt. Sở thú này họ trồng nhiều tre, những khóm tre cao vòi vọi to, màu vàng sậm làm cho tôi nhớ đến những cây tre tại quê nhà . Ở đây có nhiều thác nhân tạo nên trong lúc đi tham quan thường được nghe tiếng thác chảy rào rào vui tai. Woodland Park Zoo mở cửa quanh năm.
Ngày 16 tháng 7 đến UPS để gửi những thứ đã mua vì valise nào cũng đầy quần áo không còn chỗ, vả lại cũng có nhiều thứ dễ vỡ nên phải nhờ họ đóng thùng và trở về cho được an toàn. Tiền gửi UPS cũng tốn gần hai trăm đồng. Sau đó xếp dọn để chuẩn bị trở về.
Ngày 17 tháng 7 trở lại New Jersey, vì máy bay bị trễ nên mãi 3giờ 45 mới tới Las Vegas mà chuyến bay từ Las Vegas tới Philadelphia sẽ cất cánh lúc 3 giờ 50 nên sau khi ra khỏi máy bay phải chạy quá chừng. Nhưng khi máy đang chạy ở phi đạo thì có trận thunder Storm kéo đến nên phi công không được phép cất cánh, phải chờ hơn một giờ sau mới được bay, do đó chúng tôi về đến nhà đã hơn một giờ sáng! Chuyến nghỉ hè này rất vui và hữu ích. NGUYỄN THỊ XUÂN-NGA
|
|
Created by Hiep Nguyen, Sept. 2003 |